Saturday 23 April 2011

NHỊP BA CỦA NIỀM VUI

Thời gian, sự kiện và mầu nhiệm là những mắt xích biến những điều không thể thành có thể, cụ thể:

Mùa chay chỉ còn tính bằng giờ, có nghĩa là Tuần Thánh cũng sắp qua và niềm vui Đức Kitô phục sinh đang cận kề. Tối nay niềm vui Đức Kitô Phục Sinh sẽ vỡ òa trong lòng các tín hữu, trong đó có bạn và có tôi.

Cầu mong tất cả mọi người mừng lễ Phục Sinh tràn đầy niềm vui và ân sủng của Đức Kitô. Đây là thời khắc xiềng xích tội lỗi được tháo cởi, lối vào cõi trường sinh đã được khai mở và Chủ Nhân nước trời đang chờ đón những ai thực sự mặc con người mới trong Đức Kitô, Đấng đã chiến thắng tội lỗi và sự chết để bước vào vinh quang.

Bạn và tôi – được mời gọi làm người – đó là một phép lạ, được mời gọi làm con Thiên Chúa, qua bí tích Rửa tội và gia nhập Hội thánh, đó là một chọn lựa, đồng thời là một ân ban; được Thiên Chúa, qua Đức Kitô cứu chuộc, đó là một mầu nhiệm mà lý trí con người không phải ai cũng hiểu thấu.

Vì thế, hãy sống, hãy tin tưởng, chiêm nghiệm, phó thác vào Thiên Chúa và trở nên “hoàn thiện như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện”.

Chiều thứ 7 TT, 23/04/2011

Wednesday 20 April 2011

HỎI ÁNG MÂY CHIỀU

Chiều một ngày tháng tư, nắng vẫn còn chạy dài trên những vòm lá, trời cao, xanh biếc nhưng không khí vẫn lành lạnh…Cảnh vật, lòng người và một chút gì đó xao xuyến, bồi hồi đánh động những tiềm thức tưởng chừng như đã ngủ quên của thời đại về một thời xa xưa, được tái hiện, quay về bây giờ và chính lúc này, ngay trong tôi, như một thực tại có thể đụng chạm được bằng xúc giác.

Một sự kiện, cách đây hơn hai ngàn năm, xảy ra trong một đất nước nhỏ bé xa xôi có tên là Israel.

Một con người - chính xác hơn là Thiên Chúa làm người - mang tên Giêsu, hiện thân của tình yêu. Đức Giêsu đã yêu đến si mê những „nhân tình tội lỗi“ là con người, những thụ tạo do Ngài dựng nên. Ngài chấp nhận khổ hình, chết và sống lại - một phương thế trong muôn ngàn phương thế - để cứu độ con người.

Chịu khổ hình, Ngài đồng cảm với con người khi phải đối diện với bệnh tật, những nỗi khổ đau của kiếp nhân sinh. Qua qua cái chết, Ngài cho thấy thân xác con người chỉ là hữu hạn, bất túc và hư nát. Ngài đã phục sinh, chứng tỏ Ngài chính là Thiên Chúa, đã chiến thắng sự chết để bước vào vinh quang. Qua sự kiện Phục sinh, Đức Giêsu đã mở toang cách cửa Nước Trời, cho con người được tham dự vào cuộc sống thần linh, một trạng thái hạnh phúc miên trường.

Thế nhưng, trời vẫn cao, nắng cứ chiếu tỏa, chim cứ hót, thời gian cứ xoay vần, tạo vật cứ nẩy sinh…nhưng lòng người vẫn cứ lạnh lùng và khóa chặt cánh cửa tâm hồn, không có chỗ cho Đấng tình yêu ngự trị.

Con người vẫn cứ thờ ơ, cứ lầm hay vô tình, xem như chuyện xảy ra cách đây hơn hai ngàn năm tại Israel chẳng có chút liên hệ gì đến bản thân mình, đến cuộc đời này và đến thế giới này!

Tiền bạc, của cải xem ra hấp dẫn đối với con người hơn là một Thiên Chúa chịu đóng đinh? Đối với con người: Danh vọng – những hào quang sáng chói - dễ sở hữu hơn là chấp nhận thân phận „làm con“ Thiên Chúa? Những thú vui xem ra dễ „cảm“ và dễ chịu hơn là sống khắc khổ, hy sinh?


Phản tỉnh, trở về để được Thiên Chúa tha thứ, yêu thương và được cứu độ, đó thái độ cần thiết nhất và đẹp lòng Thiên Chúa nhất, còn chần chờ gì nữa, hãy bắt đầu lúc chưa muộn và khi trời còn sáng…

Trầm tư, suy nghĩ và tự đặt câu hỏi trong một buổi chiều lộng gió, tôi hỏi vào khoảng không, hỏi áng mây chiều nhưng cũng đang tự vấn chính tôi và chính bạn đó!

TT, 19.04.2011

MỘT VÀI CẢM NGHĨ VỀ TUYỆT PHẨM “GLADIATOR”

(Hơn một lần bạn đã xem những tác phẩm điển ảnh nổi tiếng và chúng đã để lại cho bạn nhiều ấn tượng đẹp? Tôi cũng thế. Bộ phim “GLADIATOR - Dũng Sĩ Giác Đấu ” đã để lại trong tôi những cảm nghĩ rất riêng...)

Con người được sinh ra, sống trong cuộc đời và lúc lìa khỏi đời, không còn hiện hữu trên thế giới này nữa giống như gió thoảng, mây bay không để lại vết tích. Thế nhưng, một chiếc lá lìa cành, trở về với nguồn cội còn muốn làm được điều gì đó để lại trong lòng đất, làm cho đất phì nhiêu, cho cây cối đâm chồi nảy lộc. Con người cũng thế, đi vào cuộc đời, sống trong cuộc đời, khi nhắm mắt lìa đời cũng muốn có danh gì với núi sông.

Sinh vào cuộc đời, dầu muốn dầu không, con người cũng phải chấp nhận thân phận người, phụ thuộc vào thời gian, không gian, môi trường sống… Con người tuy nhỏ bé nhưng ước vọng và hoài bão thì quá lớn lao, lớn hơn bầu trời, không thể đo lường được! Tham vọng, đam mê có thể là những liều thuốc thần dược bồi bổ và làm điểm tựa cho con người đạt đến mục đích. Con người xây dựng cuộc sống qua muôn hình muôn vẻ. Từ tư tưởng, ước vọng và hoài bão cao đẹp cho đến những điều xem ra làm cho con người không xứng đáng với phẩm giá con người nữa.

Bởi thế, tư tưởng, chính trị, quyền lực, danh vọng, hạnh phúc, tình yêu, hận thù, gian xảo… là những đích ngắm của người này nhưng cũng là điều đáng tránh của người khác. Đó cũng là những vấn đề không của riêng ai nhưng đối với những người có tham vọng, muốn làm nên lịch sử, muốn tạo dấu ấn với đời thì những thứ kia là những cái đích họ nhắm tới. Tất cả những điều trên chúng ta gặp thấy trong tuyệt phẩm “Gladiator”.

Vào thời hoàng kim, đế quốc La mã trải rộng từ sa mạc Châu Phi đến biên giới miền bắc Anh quốc. Hơn ¼ thế giới sống và chết dưới sự cai trị của các Hoàng đế La mã. Mùa đông năm 180, cuộc chiến với những bộ tộc rợ Germania của Hoàng đế Marcus Aurelius đã đến lúc kết thúc, mở ra triển vọng hoà bình trong toàn cõi đế chế. Marcus Aurelius là một hoàng đế La mã. Trên cương vị của một vị vua, ông là người thống nhất được toàn cõi đế chế, là một vị vua tài ba, anh minh, can đảm. Ông có công dẹp các dân rợ là mối hiểm hoạ cho đế chế của ông. Vua Marcus Aurelius còn là một triết gia, theo trường phái khắc kỷ, ông hiểu rõ thân phận con người mong manh và luôn muốn được sống hạnh phúc. Chứng kiến cảnh chết chóc của dân chúng do chiến tranh gây ra, ông cảm thấy đau lòng. Nhờ suy tư triết học, ông muốn tái lập triều đại vững mạnh, quốc thái dân an, con dân được hạnh phúc và  không còn bóng dáng của chiến tranh. Ông có hai người con: công chúa Lucilla và hoàng tử Commodus. Lucilla thì hiền lành, thông minh, điềm đạm, có tài xoay xở. Vua cha đã có lần khen nàng như sau: “Nếu sinh ra con là một người đàn ông, con sẽ là ông vua tài giỏi”. Thế nhưng, theo tục lệ, hoàng tử Commodus sẽ kế nghiệp vua cha, làm hoàng đế La mã. Biết rõ tâm địa ác độc, gian xảo, nhẫn tâm của Commodus, Marcus Aurelius không đành lòng trao vương quốc cho người con bất tài ấy. Ông muốn gã công chúa Lucilla và trao quyền điều khiển đế quốc cho Maximus, một vị tướng tài ba, tinh thông võ nghệ, đánh dông dẹp tây nhưng cũng rất đỗi trung thành với Roma và với Marcus Aurelius.

Tuy nhiên, vị tướng này đã có vợ con nơi thôn trang. Sau cuộc chiến cuối cùng, Maximus  muốn được lưu lại nơi quê nhà yên bề gia thất, dã từ vũ khí, vui sống cảnh điền viên, sống cuộc đời chân lấm tay bùn mà thơ thới bình an. Nhưng trở về quê nhà, đối với Maximus chỉ còn là ước mơ vì vua Marcus Aurelius muốn Maximus nối nghiệp mình, lãnh đạo đế quốc. Tiến thoái lưỡng nan, Maximus phải chọn Roma, sự trung thành với nhà vua và gia đình vợ con; một quyết định rất khó đối vơi Maximus.

Commodus biết được ý định của vua cha, nên đã nhẫn tâm giết người cha ruột bằng một cử chỉ ôm hôn cung kính, rồi tiếm ngôi, hành động này nói lên tâm địa độc ác của Commodus.

Lên ngôi hoàng đế, Commodus cai trị dân chúng bằng dường lối “nắm đấm và ổ bánh mỳ”, tức khôi phục lại trường giác đấu, lo ăn chơi hả hê trên nhưng giọt máu và cái chết của những dũng sĩ mang danh nô lệ. Không những thế, Commodus còn được người đời tặng cho danh hiệu không mấy tốt đẹp là “ông vua bạo dâm”, dan díu với cả Lucilla, chị ruột của mình. Khi lên ngôi vua, Commodus manh tâm giết Maximus và vợ con vị tướng này. Chiếu chỉ được ban ra, Quintus hạ lệnh giết vợ con của Maximus, còn Maximus thoát khỏi cái chết nhờ sự tài ba của mình, giết những tên lính thi hành án. Về lại được quê nhà, nhìn cảnh tiêu điều của ngôi nhà đã bị thiêu rụi, vợ con đã bị giết chết, đau lòng trước cảnh tang thương này, lại vừa bị thương, Maximus đã nằm bất tỉnh. Một đoàn người Ả rập đã bắt Maximus, đem bán cho Proximus, một ông bầu của trường giác đấu. Trở thành nô lệ, sống trong cảnh “cá lớn nuốt cá bé”, phải chứng kiến những cái chết bi thương và những lời tung hô ghê rợn, cuồng loạn của dân chúng. Nhờ tài võ nghệ, đánh đâu thắng đó, Maximus và những người bạn của ông được Proximus đưa về Roma đấu với những tên thiện xạ tại hý trường Colesium. Về nơi cố quận, Maximus  gặp lại cố nhân Commodus  và Lucilla, tình yêu chớm nở nhưng lòng trung thành với Roma và với Marcus Aurelius  như tiếp thêm sức mạnh, ông quyết định bước đi con đường chính nghĩa, tức thực hiện lời hứa với Marcus Aurelius mà Maximus coi như cha mình là lập viện Nguyên Lão, tập hợp gồm những bậc hiền triết cao minh do chính các bộ tộc trong đế quốc bầu lên để hợp tác lãnh đạo và cố vấn cho hoàng đế, mở ra thời kỳ cộng hoà, con dân được tự do.

Gặp lại Maximus, Lucilla càng đau lòng vì tình yêu trắc trở của nàng và Maximus không thành, đồng thời phải cung phụng đứa em Commodus như một vương phi. Chính trường rối ren, tình duyên trắc trở nhưng Maximus vẫn một mực trung thành với Roma và với cố hoàng đế Marcus Aurelius. Được sự giúp đỡ của Gracchus và Lucilla, Maximus có thêm nghị lực, giết Commodus, lập nên chế độ cộng hoà, đứng đầu là viện Nguyên Lão. Tuy Maximus không thoát khỏi bàn tay ác độc của Commodus, nhưng cái chết của Maximus mở ra một thời kỳ mới, thời kỳ con dân Roma được tự do và đế quốc Roma bước vào trang sử mới. Còn cái chết của Commodus là một cái chết nhục nhã của một kẻ tội đồ, một người đáng lẽ không nên xuất hiện trong sử sách huy hoàng của Roma.

Tóm lại, những biến cố lịch sử, những con người đã từng làm nên lịch sử, các hoàng đế, các vị tướng, những người dân đã được tái diễn trên màn ảnh sống động. Chúng ta không những chỉ nghe nói, đọc lại từng trang sử oai hùng, bi thương mà còn có thể cảm, sờ mó được những con người thật trên màn ảnh. Một vị vua anh minh và cũng là một triết gia, Marcus Aurelius đã để lại cho người hôm nay những trăn trở của thân phận làm người, làm thế nào để quốc thái dân an, con người được hạnh phúc. Một vị tướng tài ba, trung thành, Maximus đã làm cho biết bao nhiêu người ngưỡng mộ không những về tài năng mà còn về lòng trung thành. Một công chúa Lucilla thông minh, tài giỏi nhưng đã không thể vượt qua quyền lực và lòng nhẫn tâm của đứa em trai Commodus. Một vị vua gian ác, độc địa, gian xảo Commodus đã để lại cho lịch sử những vết đen không thể nào tẩy xoá. Những sự kiện, những con người, và cả nội dung của tác phẩm “Gladiator” đã để lại cho người xem những điều phải suy nghĩ và đem lại những bài học quý giá. Nếu chúng ta dành một chút thời gian ngẫm nghĩ, ta sẽ tìm ra được những điều lý thú từ tác phẩm đó.

Thế nhưng, việc phân tích, lượng giá toàn cục tác phẩm “Gladiator” là một điều rất khó, trong bài này, người viết chỉ chọn những nhân vật và những sự kiện chính để phân tích, lượng định, nêu lên những ưu khuyết của những nhân vật và các sự kiện ấy và thêm một chút suy tư về Roma hôm nay được khởi sự trên mảnh đất và trên chính triều đại Marcus Aurelius và Maximus đã cố công gầy dựng ngày xưa ấy.
         
Dòng thời gian trôi từ qúa khứ đến hiện tại và chuyển dần về tương lai, đã có biết bao thời đại, con người, đế chế, sự kiện qua đi nhưng lịch sử vẫn còn đó. Để xây dựng một đế quốc, phải có những người tài giỏi, thông minh, lòng trung thành, can đảm… La mã là đế quốc hội đủ những điều kiện trên. Vua Marcus Aurelius, một triết gia lỗi lạc, Maximus, một viên tướng tài giỏi, can đảm, trung thành với vua, với Roma; ngoài ra còn có nhiều người thông minh tài giỏi khác đang một lòng vì Roma giàu mạnh, bá chủ toàn cõi lục địa già. Đó cũng là một điều rất dễ hiểu là tại so đế quốc Roma lại hùng mạnh và bá chủ một vùng đất rộng lớn đến như vậy.

Bành trướng về sức mạnh quân sự là một việc làm cần thiết của các cường quốc vì qua đó để giới thiệu với thế giới về sức mạnh vốn có của mình và cũng đưa ra những thông điệp nhằm răn đe những kẻ có thể tranh giành miếng bánh và chiếc ghế quyền lực họ. Khai hoá những dân tộc mọi rợ, man di được xem là bổn phận và trách nhiệm của những bậc quân vương thời đó, nhằm mở rộng đế chế và cho họ chút ân huệ, tức đem ánh sáng văn minh soi vào những nơi tăm tối. Đó phải chăng là những điều mà Marcus Aurelius đã từng nghĩ ? Ông không ngừng đánh chiếm các dân rợ với nguyện vọng thống nhất đế quốc và ông đã làm được điều đó. Chiến thắng bao giờ cũng vẻ vang, thế nhưng việc đổ máu  những người vô tội sẽ làm cho những người có “chính tâm” không thể ăn ngon ngủ yên.

Chiến tranh là điều vinh quang cho kẻ bất khả chiến bại nhưng là tội ác mà người chiến thắng phải mang theo. Sự chết chóc, tàn bạo, thương tổn của chiến tranh là điều ghê rợn nhất trong lịch sử nhân loại. Một con người có tâm hồn thanh cao, minh triết thế sự như hoàng đế – triết gia Marcus Aurelius có lẽ biết rất rõ điều đó. Nhưng thời cơ đun đẩy, cờ đến tay lẽ nào Marcus Aurelius không phất? Việc thống nhất Roma là một chiến công vĩ đại, được dân chúng tán thưởng không ngớt. Điều cần làm lúc này không gì khác là tạo dựng một đế chế quốc thái dân an, mọi người được hạnh phúc. Vì theo Marcus Aurelius, “nhiệm vụ của triết gia là đem đến cho con người niềm an ủi và sự thư thái tinh thần. Bởi vì những gì con người tạo ra đều nhất thời, chỉ có cái chết mới là vĩnh cửu, vì thế hãy sống thực hồn nhiên”, mà ông là một hoàng đế – triết gia nên sứ mệnh đó đối với ông càng cao cả biết bao! Ước muốn của ông là lập viện Nguyên Lão tập hợp gồm những bậc hiền triết cao minh do chính các bộ tộc trong đế quốc bầu lên để hợp tác lãnh đạo và cố vấn cho hoàng đế. Rất tiếc ước vọng đó ông đã không kịp thực hiện, vì tuổi già xế bóng đã đến gần và nội bộ gia đình lại rối ren.

Thấy trước viễn cảnh không mấy tốt đẹp, tuổi già, sức yếu, Marcus Aurelius đã tính sẽ giao quyền cho Maximus, người sẽ kế vị mình lãnh đạo đế quốc. Nhưng tại sao Maximus lại được Marcus Aurelius chọn làm người thực hiện ước mơ của ông mà không phải là hoàng tử Commodus, con của ông? Như chúng ta đã biết, Maximus là một vị tướng anh dũng, đánh đông dẹp tây, đi đến đâu là chiến thắng tới đó. Maximus là một người quân tử mà một người quân tử thì làm tất cả vì nghĩa chứ không vì lợi. Maximus là người quân tử vì đối với gia đình, ông giữ trọn chữ Trinh Tiết, một người chồng, một người cha tốt, dù phải chiến đấu nơi sa trường, nơi biên ải xa xôi nhưng trong lòng Maximus không bao giờ vắng bóng người vợ hiền và đứa con thơ. Theo Đông phương thì Maximus là một người giữ đạo phu - phụ và phụ - tử một cách mẫu mực. Tuy nhiên, gia đình dù có thiêng liêng, cao cả đến mấy Maximus cũng sẵn lòng hy sinh việc tư để lo việc công. Việc công đó là gì nếu đó không phải là việc nước, việc của đế quốc? Maximus là một người rất trung thành với vua và còn hơn thế nữa là ông trung thành với Roma.

Hiểu được bổn phận của một người con của đế quốc, ông ra sức thực thi điều vua Marcus Aurelius truyền. Maximus là một vị tướng trung với vua, hiếu với dân, với gia đình. Ông giữ đạo quân - thần, trung với minh quân, tức hoàng đế Marcus Aurelius. Maximus đã thể hiện nguyên tắc đối xử, theo Đông phương, là Trung và Thời, có nghĩa Maximus không bao giờ suy nghĩ, hành động một cách thái quá hay bất cập mà thể hiện đường lối Chiết Trung, tức dung hoà giữa hai thái cực và biết dựa vào Thời để hành động. Maximus hành động như một người biết “cách vật”, hiểu tường tận về con người, tư tưởng, đường hướng của Marcus Aurelius. Maximus cũng biết đế quốc và Roma đang cần gì nơi mình. Maximus cũng là người “trí tri”, tức có một tri thức xác đáng khả dĩ, “thành ý và chính tâm” nên “tu thân” rồi mới “tề gia, trị quốc” và cuối cùng là “bình thiên hạ”. Maximus không nhỏ nhen ích kỷ chờ đợi thời hay nhân dịp mọi người đang tán thưởng mình, biết nội tình hậu cung của Marcus Aurelius để cướp ngôi, truất phế người tiền nhiệm nhưng là giúp nước, phò vua, biết người biết ta. Nếu vì lợi, tức hành động của kẻ tiểu nhân, Maximus có thể lợi dụng cơ hội để cướp quyền thế ngôi nhưng Maximus đã không làm như thế. Điều đó cho thấy Maximus đúng là vị tướng “chính danh”, sống thực như ông vốn có, xứng đáng bậc quân tử.

Maximus là một vị tướng giỏi, một con người tài ba, đức hạnh, can đảm. Maximus dũng cảm xả thân vì nghĩa. Thế nhưng, người làm điều thiện lại là người không được hưởng thành quả tốt đẹp cho riêng mình. Thử đan cử một vài sự kiện để chứng minh điều đó: vợ con của Maximus chết, riêng Maximus thì thân bại danh liệt, bị Commodus lôi xuống khỏi vũ đài chính trường cũng như chiến trường. Lịch sử bao giờ cũng là lịch sử, nó có thể là nền làm nên vinh quang cho một ai đó nhưng cũng rất đỗi phủ phàng. Con người làm nên lịch sử, nhưng lịch sử cũng có lúc nhấn chìm con người, thể chế, chính trị… vào trong cõi “vô thức” của lịch sử. Họ không còn hiện hữu dù là một cái tên, một hình bóng giữa hiện tại cũng như trong tương lai. Đó là sự thật quá phủ phàng phải không? Con người sống, muốn tìm cho mình một chút gì để khai sáng, bồi đắp cho cuộc đời thêm đẹp, thêm tươi. Do đó, chính trường cũng có thể là mồ chôn, cũng có thể là đài vinh quang của những vị tướng, của những đoàn quân. Nhưng chiến tranh cũng có lúc phải kết thúc. Danh vọng cũng có lúc phải phai tàn, chỉ có tình yêu mới còn mãi.

Khi nói đến tình yêu là nói đến tình yêu giữa người này với người khác, giữa nam với nữ, giữa vợ chồng với nhau. Trong tuyệt phẩm “Gladiator” cũng cho ta thấy có một thứ tình yêu khắc khoải chờ đợi, một tình yêu chân chính nhưng cũng có một thứ tình yêu vượt quá mức luân lý cho phép. Đó là lý do tại sao chúng phải nhắc đến mỹ nhân Lucilla, ái nữ, công chúa của hoàng đế Aurelius.

Như trong phần tóm tắt đã nói đến, Lucilla là một người thông minh, nhan sắc, bản lãnh. Thế nhưng, Lucilla đã bước vào một ngã rẽ, một con đường mà cho đến bây giờ nhiều người khó chấp nhận đó là trở thành người tình, người vợ của Commodus, em trai nàng. Người ta có khi định đoạt và ban ra những điều luật cho cả một đế quốc nhưng không thể ra luật, định hướng đi cho chính mình, thế mới thấm thía câu nói của cổ nhân “thắng được vạn quân địch không bằng thắng chính mình”. Nếu phân tích tâm lý nhân vật Lucilla trong tác phẩm “Gladiator”, chúng ta thấy nàng là một người bất hạnh hơn ai hết, với ánh mắt đượm buồn và một tâm hồn ray rứt, bị hoàn cảnh đẩy đưa. Nàng biết rằng con đường nàng đang bước đi không bằng phẳng, êm ả chút nào nhưng gồ ghề của lòng người sỏi đá, thiếu vị ngọt của một tình yêu chân thật. Tình yêu chân thật đối với nàng như cơn mưa rào rơi rớt vào một ngày đầu hạ, như màn đêm chờ tia nắng bình minh và không biết lúc nào những giọt mưa ấy, ánh sáng bình minh ấy mới dọi chiếu vào một tâm hồn hiu quạnh giữa hai nỗi cô đơn đi về của nàng, một dành cho Commodus và một dành cho Maximus. Nàng đang bắt trái tim và khối óc phải phụ thuộc vào một tên đê tiện mang danh là hoàng đế như Commodus. Khi không đi đúng đường ngay lẽ phải, nàng đang cố đuổi bắt một hạnh phúc giả tạo để rồi thất vọng ê chề với một con tim trống vắng tình yêu.

Cuối cùng Lucilla cũng ngộ ra, nàng biết rằng tình yêu của mình phải chăng xứng đôi vừa lứa với Maximus (lúc này Maximus chỉ còn một mình vì vợ con đã mất)? Thế nhưng nguyện vọng chính đáng đó của nàng cũng khó mà thực hiện được. Bởi Maximus vì Roma mà hy sinh tình cảm riêng tư của mình, dù đó là một nhu câu chính đáng. Hai tấm lòng như hai bờ sông không gặp được nhau khi chưa có chiếc cầu mang tên là tình yêu nối kết, và phải chăng nhịp cầu hạnh phúc đó phải mang tên là hôn nhân?  

Thế nhưng, tình duyên không thành, kẻ không muốn thì phải sẵn sàng chia sẻ, người ước mong lại tỏ ra hững hờ. Tình chợt đến chợt đi, tình ngủ quên trên đồi vắng, chỉ có tình ở lại mới là tình đẹp, nhưng tình ở lại đối với Lucilla cũng chỉ là một giấc mơ dài và phải chăng đó cũng chỉ là một tình yêu đơn phương? Lucilla đã nuôi hy vọng, vun đắp mối tình với Maximus, để cho mối tình chân chính với Maximus có dịp lên mầm, nở hoa nhưng tình đó cũng chỉ có thể trong tâm hồn của hai kẻ cô đơn mà thôi. Maximus có thể cô đơn khi người vợ và đứa con thân yêu không còn, Lucilla cũng có thể cô đơn vì phải tình chung mà dạ riêng với Commodus, em nàng. Lucilla phải lựa chọn giữa hai con đường, con đường trung thành với cha mình nhưng cũng đồng thời thương đứa em và cũng là “chồng riêng” của mình.

Nếu Lucilla không vướng vào vòng vây của Commodus, có lẽ nàng sẽ là một cô gái chính chuyên, công, dung, ngôn, hạnh và lịch sử muôn đời sẽ cúi mình thán phục nàng! Nhưng sự thật đã không được như thế.

Nếu hoàng đế Marcus Aurelius, Maximus và có thể cả Lucilla nữa đại diện cho nhưng người tốt, tức đứng trong hàng ngũ chính nghĩa thì bên kia ranh giới của chính nghĩa là phi nghĩa, ta thấy thấp thoáng một kẻ đê tiện có tên là Commodus. Nếu theo Hégel, K. Marx, mọi sự phát triển được là do đi qua tiến trình biện chứng: đề, phản đề và hợp đề thì chúng ta có thể so sánh: hoàng đế Aurelius, Maximus và Lucilla chính là Đề, Commodus là Phản Đề và chúng ta sẽ thấy được hợp đề là gì.

Tại sao gọi Commodus là phản đề, điều đó quá đáng lắm không? Câu trả lời có lẽ là không. Như chúng ta đã biết, Commodus là một kẻ nhẫn tâm, tàn ác, sẵn sàng giết cha mình, giết tướng Maximus cùng vợ con của vị tướng này, và cũng sẵn sàng lôi kéo Lucilla, chị của mình vào con đường tội lỗi.

Commodus là vật cản đường bẻ gãy ý tưởng quốc thái dân an của Aurelius. Commodus là chướng ngại vật ngăn cản đường lối chính tâm của Maximus đồng thời Commodus trở thành trò hề với mối tình vụng trộm với chị mình là Lucilla. Commodus sẵn sàng lôi xuống tất cả những ai cản bước mình đến với chiếc ghế quyền lực để thống trị, cai trị đế quốc chứ không phải để phục vụ đế quốc. Aurelius, Maximus, Lucilla đều bị Commodus lôi xuống khỏi vũ đài chính trị, chiến trường cũng như tình trường. Khi đã thực hiện được tham vọng làm vua, Commodus cai trị đế quốc bằng một đường lối không giống ai, bằng một chính sách dã man: “nắm đấm và bánh mỳ”. Commodus cười hả hê trên sự chết chóc của người khác bằng cách tái lập các hý trường, chơi trò giác đấu, bắt con dân, đồng loại phải tiêu diệt lẫn nhau. Ngoài sự cai trị không giống ai, Commodus cũng không biết đâu là tiêu chuẩn đạo đức, ranh giới của sự thiện ác, phải trái, thị phi. Nếu theo Đông phương, khi một ông vua không sống đúng với “chính danh”, tức vua cho ra vua thì khi đó ông không còn phải là vua nữa, cũng không phải là thiên tử, thay trời trị dân mà là một tên đê tiện, trời không dung đất không tha. Vua không xử thế theo Mệnh Trời lấy gì dân trọng? Do đó, ta có thể gọi Commodus là một tên tiểu nhân không hơn không kém, lại đội lốt hoàng đế, một ông vua, nhưng thực ra chẳng ai phong cho y nên cũng không đáng được gọi là vua.

Vì đòi hỏi của vua cha Aurelius cho một người kế vị là người đó phải khôn ngoan, dũng cảm, ý thức công bằng và biết chừng mực. Nhưng ông đã được đón nhận câu trả lời từ đứa con như một gáo nước lạnh đổ xuống tuổi già của Aurelius: “Con không có đức tính nào trong các tiêu chuẩn của cha nhưng con có tham vọng, tài xoay xở, và hơn hết là tận tụy với gia đình, với cha”. Vua Aurelius biết rất rõ lòng dạ con mình và thốt lên những lời chua cay, hết đường chạy chữa: “Lỗi lầm của con với tư cách là  con chính là  thất bại của cha trên cương vị người cha”  . Một lời trần tình thật lòng mà đến lúc này vua Aurelius phải nói trong tiếng nấc nghẹn ngào. Có thể vua Aurelius nuối tiếc cho sự huy hoàng, minh triết thế sự của một vị vua anh minh như mình rồi đây  sẽ bị nhấn chìm bởi lòng dạ nhẫn tâm của đứa con mà ông có thể cho rằng sinh ra Commodus là một sự sai lầm, và sự sai lầm lớn nhất là sự thất bại của một người cha trên cương vị người cha. Tiền đồ bị lung lay, gia đình tan rã, đế quốc bước vào cảnh đen tối là điều không ai muốn nhưng Aurelius có lẽ đã “linh cảm” được những điều đó có thể xảy ra. Và quả thực như chúng ta thấy, những điều đó đã xảy ra thật, chứ không còn chỉ là giả thiết.

Tóm lại, Commodus là một phản đề vì y là một tiểu nhân, tiểu nhân trong hành động giết cha, tiểu nhân trong cuộc chiến không cân sức với Maximus (đâm một dao vào Maximus trước khi thách đấu), tiểu nhân trong cách cai trị đế quốc, tiểu nhân trong mối tình vụng trộm với Lucilla, và sẵn sàng phá đổ tất cả những tiền đồ mà biết bao nhiêu người khác đã gầy dựng cho lý tưởng quốc thái dân an, người người được hạnh phúc.

Sự trở lại của Maximus, sự giúp đỡ của Gracchus và Lucilla có thể được coi là hợp đề của tuyệt phẩm “Gladiator”. Về lại Roma, Maximus không chọn những lời tung hô của dân chúng, cũng không chọn tiền bạc, danh vọng như Proximus muốn. Maximus cũng không nhắm ý hướng khôi phục lại danh dự, quyền lực cho mình nhưng là thực thiện ý nguyện của hoàng đế Aurelius là làm sao để quốc thái dân an, người người hạnh phúc. Phải chăng Maximus giết Commodus chỉ là giọt nước tràn ly, lòng tự trọng và lòng trung thành của Maximus bị tổn thương? Về cố quận, gặp lại cố nhân, Maximus không phải đi tìm vầng hào quang xưa nhưng là tìm một đáp số cho đế quốc, cho Roma mà bài toán đó đã được Aurelius đặt vấn đề và cách thức giải. Cách giải và tìm đáp số không khó vì giết Commodus là tìm thấy lời giải đáp. Thực hiện việc lập viện Nguyên Lão là lời giải đáp cuối cùng cho bài toán ấy.

Thế nhưng, lúc thực hiện, Maximus không tránh khỏi cái chết cũng không tránh khỏi bàn tay của Commodus, một kẻ hèn hạ nhưng muốn làm bá chủ người khác; một tiểu nhân đội lốt quân tử nhưng may thay dân chúng cũng chân nhận và hiểu được phần nào những việc làm đen tối của hắn. Nhà lãnh đạo nào cũng muốn lấy lòng dân chúng, vì dân yên thì chiếc ghế của mình mới vững. Hiểu được điều đó, Commodus cũng cố gắng làm đủ mọi cách để tỏ vẻ nhân từ, chăm lo cho con dân. Commodus đã lầm, khi ăn no, ngủ yên, dân chúng có thể vẫy tay chào đón nhưng lúc thế sự thăng trầm, cũng chính những bàn tay ấy quyết định số phận của một triều đại. Lúc vui vẻ, dân chúng có thể hả hê sung sướng, nhưng lúc hữu sự cũng chính họ chà đạp, truất phế những nhà lãnh đạo họ. Sức mạnh của dân chúng có thể như ngọn gió khơi dậy ngọn lửa từ đống tro tàn nhưng chính ngọn gió ấy cũng có thể thổi bay các thể chế chính trị.

Lịch sử đã chứng minh điều đó. Một Đổng Trác tài trí, sức mạnh hơn người nhưng cai trị dân chúng bằng thanh gươm và vó ngựa đã không thể kéo dài triều đại của mình. Một Lữ Bố sức mạnh như một siêu nhân “xuống đông đông tĩnh lên đoài đoài đoài tan” cũng không thể thực hiện tâm nguyện của mình là cùng sống hạnh phúc bên Điêu Thuyền, một tuyệt thế giai nhân để xây dựng một xã hội mà trong đó con người được sống hạnh phúc chỉ vì lòng đố kỵ và sự gian ác, đa nghi của Tào Tháo. Vì thế, một người tâm địa ác ôn và hèn hạ như Commodus làm sao hiểu được thế sự, hiểu được lòng dân, hiểu được Mệnh Trời? Một con sói dữ đội lốt chiên như Commodus làm sao che mắt được những người thành tâm thiện chí? Một vì “sao xẹt” làm sao sánh được ánh sáng quang minh của mặt trời, của vầng nguyệt? Một tâm địa gian manh như Commodus làm sao thực hiện được “chánh tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”?

Đành rằng cuộc đời có thể như một trò đùa, có cái này mà cũng không thể thiếu cái kia! Bên này là chân lý, bên kia lại là lầm lạc. Bên này là “chánh tâm”, bên kia lại là “tà tâm”. Pascal đã hiểu được sự đời trớ trêu đó nên ông đã mỉa mai một câu rằng: “Đáng buồn cười thay một thứ công lý như một con sông giới hạn. Bên này núi Pyrénée là chân lý, bên kia lại là lầm lạc”. Nhưng điều quan trọng Commodus có biết rằng mình đã lầm lạc ngay khi suy nghĩ và hành động hay không? Hẳn Commodus đã thiếu “cách vật, trí tri, thành ý, chánh tâm…”? Nếu Commodus là một minh quân thì lịch sử Roma đã đổi khác và nếu Maximus không phải là một người chính tâm thì Roma cũng như sự nghiệp của Aurelius đã bị nhấn chìm bởi đám bụi mờ của lịch sử.

Nhưng cũng đáng mừng vì đã có một người có thể làm thay đổi cục diễn “trận đấu lịch sử” không ai khác lại chính là Maximus. Có thể nhiều người cảm thấy tiếc rẻ cho sự nghiệp lẫy lừng của Maximus, một con người tài giỏi, tài đức vẹn toàn; một con người như vậy xuất hiện vào thời nào cũng quý. Maximus như viên ngọc quý đã được mài dũa. Ông mãi sáng không những trong lịch sử hào hùng của Roma mà còn trong cả lịch sử thế giới nữa. Nếu theo nhà triết học Hiện sinh J.P Sartre thì chết là hết, là chấm dứt dự phóng, hiện sinh dang dở, là ngõ cụt của kiếp nhân sinh, thì cái chết của Maximus lại mở ra một chân trời mới, bầu trời tự do không những cho những người nô lệ mà cho cả dân thành Roma, những người đáng ra là người nhưng không được làm người dưới thời Commodus như anh bạn gia đen trong đội giác đấu của Maximus chẳng hạn. Nếu cái chết của Maximus là vinh quang thì cái chết của Commodus lại là một sự hèn hạ, nhục nhã. Cái chết của Maximus là cái chết của một “vị cứu tinh” của Roma thì cái chết của Commodus là cái chết của kẻ tội đồ. Câu nói nổi tiếng “một người chết thay cho toàn dân” của Pilatus dành cho Chúa Giêsu ngày nào, bây giờ một lần nữa lại rất đúng đối với trường hợp của Maximus. Nhờ cái chết của Maximus, cái chết của một con người chính tâm, một chân trời mới đã được khai mở, lịch sử sang trang, Roma bước vào nền cộng hoà đứng đầu là viện Nguyên Lão, gồm những bậc hiền triết cao minh lãnh đạo đế quốc, một xã hội mà trước đây Platon từng mơ ước nay đã trở thành hiện thực. Sự trở lại của Maximus là một hợp đề tất yếu và hoàn hảo, giống như hạt lúa phải chết đi mới đơm bông kết trái, trở thành một mùa gặt bội thu làm ngây ngất lòng người.

Con người có thể đổi trắng thay đen, đen thay trắng, vì có thể khoác tấm áo vật chất cũng như tinh thần lên hình thể hay tâm hồn mình nhưng có một điều phải thừa nhận những người chân chính hay nói đúng hơn những nhà lịch sử chân chính thì không thể đổi trắng thay đen sự thật vốn có của lịch sử được. “Gladiator” là một tuyệt phẩm của điện ảnh nhưng những nhân vật trong tác phẩm này, cùng thời gian tính, dữ kiện, hành động của các nhân vật là có thật.

Tuy nhiên, sự thật lắm lúc cũng phủ phàng nhưng nhiều khi cũng làm cho người ta vẻ vang. Nếu Commodus nhấn chìm Roma trong tăm tối thì Aurelius, Maximus lại làm cho Roma vinh quang. Roma ngày xưa là bãi chiến trường, là mồ chôn những người lính xấu số tử trận nhưng cũng là ánh sáng soi vào bóng tối cho các dân man di mọi rợ nhìn thấy ánh sáng văn minh. Hai tiếng Roma vừa bi thương vừa kiêu hùng. Roma từng sinh ra những con người xấu xa như Commodus nhưng cũng sản sinh ra những vị hiền triết, những vị vua tài giỏi, minh quân như Aurelius cũng như những vị tướng trung thành, dũng cảm, tài giỏi như Maximus.

Roma ngày xưa là tử địa, là bãi chiến trường còn Roma bây giờ là thành phố hoà bình, tươi đẹp, đầy tinh thần bao dung và cánh cửa luôn rộng mở ra với thế giới. Roma ngày nay vừa cổ kính vừa hiện đại, giàu có và văn minh. Dầu rằng có những lúc hồi tâm suy nghĩ và nhìn những chứng tích lịch sử như Colesium, chúng ta cũng cảm thấy rùng mình, thấy tội các của những người đã gây biết bao chết chóc khổ đau cho nhân loại, những người dân vô tội, những tín hữu chỉ  vì lòng tin vào Đức Giêsu đã phải đổ máu, rơi đầu nơi hý trường ấy. Còn Roma bây giờ lại đầy lòng vị tha, thông cảm và tha thứ.

Từ quá khứ tới hiện tại, từ hiện tại tới tương lai có lẽ thời nào cũng có người nhắc đến Roma, một cột mốc, một chứng tích của lịch sử nhân loại, của thế giới vì Roma đã có những người  đổi mới cục diện của thế giới như Aurelius và Maximus. Nhờ những con người ấy góp phần làm cho chế độ nô lệ tan rã, mở ra thời kỳ tự do, thời kỳ cộng hoà và cho đến bây giờ đường lối chính trị này vẫn còn hiện diện ở nhiều quốc gia. Những nhân vật như Aurelius và Maximus vẫn sống mãi và tồn tại mãi trong tâm thức của những ai đã một lần nghe, đọc, xem tác phẩm “Gladiator” cũng như nghiền ngẫm lịch sử, những tượng đài đó luôn đứng vững mãi với thời gian và trong lòng người dương thế.

Nguyễn Văn Hoàn

Sunday 17 April 2011

LƯƠNG TÂM SAI LẦM: NGUYÊN NHÂN VÀ CÁCH KHẮC PHỤC

“Lương tâm”, theo Công đồng Vatican II, “là điểm sâu lắng và là cung thánh của con người; nơi đây con người hiện diện một mình với Thiên Chúa và tiếng nói của Người vang dội trong thâm tâm họ” (GS, 16).

Về phương diện luân lý Kitô giáo, lương tâm đóng một vai trò quan trọng vì “Lương tâm là một phán quyết của lý trí; nhờ đó, con người nhận biết một hành vi cụ thể mình định làm hay đã làm, là tốt hay xấu” (GLCG, 1778).

“Lương tâm”, còn được  hiểu, “là sự phán đoán của lý trí thực tiễn về giá trị luân lý của việc ta sẽ làm, căn cứ theo những nguyên tắc luân lý” .

Tuy nhiên, “khi phải đứng trước một chọn lựa, lương tâm có thể phán đoán đúng, hợp theo lý trí và luật Thiên Chúa, hoặc ngược lại, phán đoán sai” (GLCG, 1786). Mà nếu phán đoán sai là do lương tâm sai lầm. Vậy đâu là nguyên nhân của lương tâm sai lầm? Cách khắc phục như thế nào?

1. Nguyên Nhân

Con người là một hữu thể có lý trí, ý chí và tự do. Nhưng xét về phương diện xã hội, khi được sinh ra, được sống và lớn lên, con người bị bó buộc vào một môi trường sống nào đó; họ phải đối mặt với những pha tạp của kiếp nhân sinh: cơ chế, văn hoá, cách ứng xử, cách sống, ý thức hệ… ít nhiều tác động đến suy tư và cung cách sống của con người. Điều đó dần dà làm cho con người mất vẻ linh thánh thuở ban đầu  .

Về phương diện nhận thức, con người có thể được thụ giáo bởi một nền giáo dục quá khắt khe hoặc quá dễ dãi, có thể dẫn đến lệch lạc trong nhận thức và dẫn đến hình thành một lương tâm sai lầm.

Về phương diện luân lý, con người phải luôn luôn tuân theo phán đoán chắc chắn của lương tâm mình. Nếu chủ ý hành động nghịch với phán đoán ấy, con người tự kết án chính mình. Nhưng có thể lương tâm thiếu hiểu biết nên phán đoán sai lầm về các hành vi sẽ làm hoặc đã làm (GLCG, 1790). Thông thường cá nhân phải chịu trách nhiệm về sự thiếu hiểu biết ấy. Điều này xảy đến khi: “Con người không mấy lo lắng tìm kiếm chân lý và điều thiện, cũng như khi vì thói quen phạm tội mà lương tâm dần dần trở nên mù quáng” (GS, 16).

Hơn nữa, một lương tâm sai lầm, nghĩa là “những lệch lạc trong phán đoán luân lý có thể xuất phát từ thiếu hiểu biết về Đức Kitô và Tin Mừng; gương xấu của người khác; nô lệ các đam mê; nghĩ sai lạc về tự do lương tâm; khước từ quyền bính và giáo huấn của Hội thánh; thiếu hoán cải và bác ái’ (GLCG, 1792).

Tóm lại, những yếu tố vừa trình bày trên là nguyên nhân dẫn đến  lương tâm sai lầm. Nhưng khi nhận ra lương tâm sai lầm, chúng ta phải tìm cách khắc phục hay huấn luyện lương tâm. Vậy cách khắc phục ấy là gì?

2. Cách Khắc Phục

Lương tâm có thể đưa ra những quyết đoán sai lầm về một hành động và sai lầm đó nhiều khi gây nên những thiệt hại lớn lao cho chính bản thân và cho người khác. Đồng thời chính người có lương tâm sai lầm không thể tự mình thoát ra được nên cần phải huấn luyện lương tâm để người ấy sống đúng phẩm giá con người  .
Để có một lương tâm ngay thẳng, đúng với phẩm giá của nó, sách GLCG đưa ra những nguyên tắc để chúng ta khắc phục lương tâm sai lầm:

- Nhận biết các nguyên tắc luân lý.
- Áp dụng vào việc cân nhắc thực tiễn các lý do và lợi ích trong những hoàn cảnh cụ thể;
- Cuối cùng phán quyết về các hành vi cụ thể sắp làm hay đã làm. Nhờ phán quyết khôn ngoan của lương tâm, con người nhìn nhận, trong thực tiễn và cụ thể, chân lý điều thiện đã được chân lý nêu lên. Người khôn ngoan là người chọn theo phán quyết này (GLCG, 1780).

Một trong những điểm quan trọng trong việc huấn luyện lương tâm là: “Lương tâm phải được rèn luyện và phán đoán luân lý phải được soi sáng. Một lương tâm được rèn luyện tốt sẽ phán đoán ngay thẳng và chân thật. Lương tâm này sẽ đưa ra những phán quyết theo lý trí, phù hợp với điều kiện đích thực như Đấng sáng tạo đầy khôn ngoan muốn. Việc giáo dục lương tâm rất cần thiết cho những người chịu ảnh hưởng tiêu cực và bị tội lỗi cám dỗ làm theo ý riêng và bỏ những giáo huấn chính thức” (GLCG, 1783).

Vậy phải giáo dục lương tâm thế nào? Sách GLCG, số 1785 trích từ DH, 14 cho chúng ta biết: “Lời Chúa là ánh sáng chỉ đường để rèn luyện lương tâm. Chúng ta phải lãnh hội Lời Chúa trong đức tin, trong kinh nguyện và đem ra thực hiện; phải kiểm điểm lương tâm dưới ánh sáng Thập Giá Đức Kitô; nhờ ơn Chúa Thánh Thần trợ giúp, có các chứng từ và lời khuyên nhủ của anh em giúp đỡ, được giáo huấn chính thức của Hội Thánh hướng dẫn”. Điều này cũng được Công đồng Vatican II và Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolo II dạy: “Trong việc huấn luyện lương tâm, các kitô hữu phải luôn chú trọng đến giáo lý thánh thiện và vững chắc của Giáo hội. Thật vậy, theo ý định của Chúa Kitô, Giáo hội Công giáo là thầy dạy chân lý; nhiệm vụ của Giáo hội Công giáo là bày tỏ và giảng dạy một cách chính quy chân lý là Đức Kitô, đồng thời công bố và xác nhận, nhân danh uy quyền của mình, những nguyên tắc thuộc cấp trật luân lý phát xuất từ nơi chính bản chất của con người” (DH, 14; Splendor Veritatis, 64).

Lương tâm càng ngay thẳng, các cá nhân và các tập thể càng dễ tránh được những quyết định mù quáng và sống theo các chuẩn mực khách quan của chân lý (x. GS, 16). Vì thế, giáo dục lương tâm là nhiệm vụ phải theo đuổi suốt đời. Bởi giáo dục lương tâm bảo đảm tự do và tạo bình an trong tâm hồn con người (x. GLCG, 1784).


Huấn luyện lương tâm là việc làm cấp bách và có tính lâu dài, đặc biệt đối với lương tâm sai lầm, nhưng chúng ta phải nhận ra được đâu là nguyên nhân để tìm cách khắc phục.

Những phương thế và nguyên tắc chỉ dẫn của Giáo hội là kim chỉ nam cho chúng ta giáo dục lương tâm mình. Đồng thời cầu xin Chúa trợ giúp bằng ơn thánh của Ngài và Chúa Thánh Thần hướng dẫn. Đặc biệt nhờ Máu Đức Kitô và sự sống lại của Người mới có thể làm cho lương tâm nên trong sạch, và Máu của Người tẩy sạch lương tâm chúng ta khỏi những việc đưa tới sự chết, để chúng ta xứng đáng phụng thờ Thiên Chúa hằng sống (x. Dt 9,14).

Nhờ đó lương tâm tốt lành và trong sáng của người tín hữu còn được đức tin chân chính soi sáng, vì đức ái xuất phát đồng thời “từ một tâm hồn trong sạch, một lương tâm ngay thẳng và một đức tin chân chính (x. 1Tm1, 5).

NVH

BÍ TÍCH – KINH NGHIỆM & SỐNG

Kinh nghiệm cho thấy, mỗi biến cố xảy ra trong cuộc đời, dù muốn dù không, vẫn để lại một vài điểm đặc biệt trong lòng người. Những điểm đặc biệt đó có thể do con người chịu tác động bởi những ấn tượng ngoại cảnh hoặc người ta chủ ý thâu nhận.

Tuy nhiên, đối với người kitô hữu, còn có những điều gì đó huyền nhiệm, linh thánh mà tự con người không thủ đắc được, nhưng do Thiên Chúa mạc khải, ban ơn qua những dấu chỉ, biểu tượng hay bí tích.

Đó cũng là những cảm nghiệm mà tôi đã nhận được qua khoá học “Bí tích đại cương”. Tuy có nhiều cảm xúc, lắm điều mới lạ, nhưng nếu được sắp xếp thứ tự ưu tiên, ba điều tôi tâm đắc nhất đó là:

Thứ nhất, Đức Giêsu Kitô là Một Bí Tích. Thật vậy, Đức Giêsu vừa là nguồn phát sinh các bí tích nhưng Ngài cũng là một bí tích. Vì Đức Giêsu Kitô là dấu chỉ hoặc bí tích quan trọng duy nhất của sự hiện diện và hoạt động cứu chuộc của Thiên Chúa nơi tôi. Nếu không có niềm tin này, khi cử hành bí tích Thánh Thể, làm sao tôi có thể thấy mình đang ở trong một sự hiện diện nhiệm mầu của Đức Giêsu? Mà mầu nhiệm đó, khi được đón nhận, như một mạc khải hé mở từ Thiên Chúa, hơn hẳn một tình yêu, sự hiểu biết và quyền năng nhân loại. Nhờ sự gặp gỡ đó, giống như các Tông đồ đã gặp gỡ sự hiện diện hữu hình của Đức Giêsu ngày trước, và bây giờ, đối với tôi, Đức Giêsu chính là một bí tích, nhờ Ngài và trong Ngài, tôi gặp được mầu nhiệm Thiên Chúa, nhờ lòng tin.

Khi lãnh nhận bí tích Thánh tẩy, trở thành một chi thể của Giáo hội, tôi cũng được Đức Kitô mời gọi trở nên bí tích cho những người khác. Bởi Hội thánh là thân thể của Đức Kitô và trong Đức Kitô, Hội thánh trở thành bí tích của Thiên Chúa và của Đức Kitô.

Tuy nhiên, Hội thánh không phải là Đức Kitô, mà chỉ là dấu chỉ, là bí tích của Ngài. Khi cử hành các bí tích, Hội thánh rao truyền Đức Kitô và người ta có thể gặp được Ngài trong Hội thánh. Khi lãnh nhận các bí tích, tức là gặp gỡ Đức Kitô, ở trong Đức Kitô, như vậy các bí tích mang đến cho người lãnh nhận, trong đó có tôi, những hoa quả của ân sủng, và ân sủng này đến từ Thiên Chúa, và đặc biệt đã làm thay đổi cuộc đời tôi.

Thứ đến, các bí tích là cửa dẫn vào sự thánh thiêng. Lần đầu tiên, trong khoá học này, tôi bắt gặp được tư tưởng diễn tả các bí tích như “cửa vào thánh thiêng”  hay “điểm hẹn thần linh”.

Thật vậy, các bí tích, một cách nào đó, là cửa cho những người lãnh nhận bước vào thánh thiêng, nơi đó Thiên Chúa gặp gỡ con người, con người gặp gỡ Thiên Chúa, và Thiên Chúa cho con người có kinh nghiệm về Ngài. Những kinh nghiệm đó mang ý nghĩa linh thánh nhờ có sức biến đổi người lãnh nhận nhờ sự sống, sự chết và sự phục sinh của Đức Kitô.

Bởi vì, bí tích Thánh tẩy giúp người lãnh nhận được dìm vào trong Đức Kitô, chết đi con người cũ tội lỗi và trỗi dậy với một sự sống khác, sự sống được cứu độ. Bí tích Thêm sức đánh dấu một cuộc sống mới đã khởi sự nơi bí tích Thánh tẩy. Bí tích Hoà giải diễn tả sự đón nhận ơn tha thứ của Thiên Chúa và được mời gọi tha thứ cho người khác. Bí tích Xức dầu diễn tả sự chữa lành bệnh tật và thêm sức mạnh cho người lãnh nhận khi đối diện với cái chết. Bí tích Hôn phối tỏ bày ý nghĩa của lòng thuỷ chung của một đôi vợ chồng, và đặc biệt của Đức Kitô đối với Hội thánh. Bí tích Truyền chức thánh thay đổi ý nghĩa của việc phục vụ từ một hành vi nô lệ thành một thừa tác vụ thánh. Và trong phụng vụ Thánh thể, kitô hữu tìm ra ý nghĩa của cuộc sống phục sinh cho những kinh nghiệm hằng ngày và không ngừng cử hành ý nghĩa mới được khám phá ấy.

Như vậy, khi lãnh nhận các bí tích, được ơn Chúa tác động và sinh hiệu quả trong tâm hồn, người lãnh nhận trở thành một con người mới, nhờ sự kết hợp mật thiết với Đức Giêsu Kitô nhờ việc cử hành các bí tích theo ý Hội thánh. Nhờ sự biến đổi đó, người lãnh nhận có được kinh nghiệm sống và không ngừng được tái diễn mỗi khi cử hành các bí tích.

Và cuối cùng, kinh nghiệm sống đóng một vai trò quan trọng trong việc cử hành các bí tích. Bởi một kinh nghiệm hay một hoạt động nào đó trở thành một kinh nghiệm sống khi chúng bắt đầu mang một ý nghĩa và làm thay đổi cuộc sống của tôi. Kinh nghiệm sống ấy diễn tả một sự kiện trong quá khứ được hiện tại hoá ở đây và vào lúc này, lúc tôi đang cử hành các bí tích, có Đức Giêsu Kitô hiện diện. Như vậy, nếu cử hành các bí tích mà không có một kinh nghiệm sống bởi sự hiện diện của Thiên Chúa và ân sủng của Ngài, thì tôi chỉ cử hành một các máy móc, rập khuôn. Đã bao lần tôi tham dự phụng vụ Thánh thể, đã bao lần tôi đón nhận bí tích Hoà giải, nếu thực sự, tôi không có kinh nghiệm về sự hiện diện của Đức Giêsu khi Ngài bẻ bánh, hoặc chưa cảm nghiệm được sự tha thứ của Thiên Chúa, thì bấy lâu, những buổi phụng vụ Thánh thể và bí tích Hoà giải tôi lãnh nhận chỉ là những hoạt động hàng ngày đã trở thành thói quen.

Cũng vậy, nếu tôi không cảm nhận được sự dìm vào trong Đức Giêsu Kitô khi lãnh nhận bí tích Thánh tẩy, thì thực sự tôi chưa thuộc về Ngài. Nếu tôi không cảm nhận được ơn Chúa Thánh Thần tác động khi chịu bí tích Thêm sức, cuộc đời của tôi làm sao có thể đổi mới được?

Đức Kitô là nguồn mạch các bí tích, nhưng chính Ngài cũng là một bí tích, từ đó phát sinh mọi nguồn ơn phúc. Khi khám phá được điều đó, nhờ lòng tin, tôi mới ý thức được khi cử hành các bí tích, bởi các bí tích là cửa ngõ dẫn vào sự thánh thiêng, là điểm hẹn thần linh mà nơi đó, tôi được gặp Thiên Chúa và trở thành một con người mới, được biến đổi và được Thiên Chúa ban ân sủng, nhờ việc lãnh nhận các bí tích ấy.

Do đó, việc lãnh nhận các bí tích ấy đòi buộc tôi phải tìm ra ý nghĩa, hiệu quả và sự tác động của Thiên Chúa qua việc lãnh nhận và sự hiện diện của Ngài trong cuộc đời tôi. Từ đó hình thành trong tôi kinh nghiệm gặp gỡ Thiên Chúa khi cử hành các bí tích. Vì thế, tôi tin tưởng, cậy trông và phó thác vào Thiên Chúa. Và mỗi lần cử hành các bí tích, tôi tin có sự hiện diện của Đức Giêsu trong các bí tích ấy.

NVH

Saturday 16 April 2011

BIỂN TÌNH

Có hay không một con tim thổn thức
Cảm cảnh đời trong thời cuộc sinh li
Hay dồn nén không cho nó là gì
Giữa hai bờ dòng sông của nỗi nhớ.

Trí bảo rằng chưa một lần biết sợ
Dẫu cuộc đời dâu bể rồi cũng qua
Dù đi xa tít tắp khắp sơn hà
Vẫn đùa vui với muôn trùng sóng cả.

Tâm thì thầm: con người đâu cỏ lá
Xuôi hành trình vạn nẻo cõi nhân sinh
Lỡ ôm ấp nâng niu một bóng hình
Giữa vườn hồng giai nhân đầy tuyệt sắc.

Và đôi khi tâm hồn như chết lặng
Của Từ Thức dằn vặt rất thê lương
Tìm Giáng Hương mãi trong cõi vô thường
Giữa biển trần phong ba đầy lưu lạc.

Cũng có lúc dâng tràn niềm hạnh phúc
Như Ngưu Lang Chức Nữ phút tương phùng
Cầu Ô Thước mưa ngâu giữa không trung
Bởi mơ màng tiếng tiêu gây nên tội.

Cũng có khi tâm hồn như khoảng tối
Thắp đèn trời tìm kiếm ánh bình minh
Bởi bôn ba rong ruỗi giữa biển tình
Như mong tìm phút giây được giải thoát.

Thế mới hiểu tiền nhân nói rất thật:
„Yêu là chết một ít ở trong lòng“
Dầu tâm cảm hay lý trí ước mong
Vẫn lý lẽ mỗi bên một chí hướng.

Nhưng mong ước tâm hồn luôn hướng thượng
Tới trời cao bao la bát ngát xanh
Dù thế sự đổi thay vẫn lòng thành
Với Người Yêu mối duyên tình cầm sắt.

23.02.2011

DÒNG ĐỜI

Nhật dạ vần xoay mãi đổi dời
Lênh đênh cánh nhạn vượt trùng khơi
Càn khôn cao thấp lúc mờ tỏ
Vân vũ triền miên giăng khắp nơi.
Ví cảnh đời người như cánh nhạn
Hóa thân, nhập thế giữa dòng đời
Tầm nguyên phúc họa chân chân giả,
Nức tiếng chân nhân, danh rạng ngời.

21.02.2011

TẾT ?!

Tết đến buồn xo ở xứ người,
Mai đào khuất dạng, kém màu tươi,
Bánh chưng, câu đối, hồng bao hiếm,
Tuyết trắng một màu phủ khắp nơi.
Xa cảnh, xa người, xa bến cũ,
Tiếng đàn réo rắt khẽ buông lơi.
Đành thôi… sách vở làm tri kỷ,
Buồn dấu trong tim, tạm lánh đời.

Tết 2011

MÙA ĐÔNG XỨ LẠ

Khi nói đến mùa đông, người ta thường nghĩ đến thời tiết se lạnh, chẳng còn nắng vàng, chẳng có gió thanh, tiết trời ảm đảm mịt mù, cây cối trụi lá, hoa thơm cỏ lạ cũng đã vội vàng chia tay cuối thu… Nếu mùa đông là khoảng thời gian thiếu sức sống như thế lại ở nơi xứ lạ chắc hẳn nhiều người sẽ rùng mình tự hỏi: „Mùa đông xứ lạ“ có gì vui?
Ai cũng biết thời gian vốn xoay vần, hết mùa hè sang mùa thu, hết thu lại sang đông và hết đông là bắt đầu một chu kỳ mới với mùa xuân. Mỗi mùa người ta thường mặc cho nó những ý nghĩa và nhiều hoạt động hay sự kiện văn hóa xảy ra trong đó, tùy thuộc vào không gian và thời gian.
Trong bài viết này tôi muốn nói đến cảm nhận của mình về mùa đông nơi mảnh đất xa xôi Áo quốc, nơi tôi có dịp sống và học tập tại đây.
Cảm nhận đầu tiên của tôi về mùa đông ở Áo là cây cối trơ cành trụi lá, sắc xanh muôn thủa lá đã không còn lý do để hiện hữu nữa, những cánh lá bịn rịn rơi rụng để lại thân, cành cây đứng cười với gió đông và hứng chịu giá lạnh của tuyết.
Mùa đông về, gió đông cũng lẽo đẽo về theo, làm cho thời tiết trở nên se lạnh, lạnh, rất lạnh, lạnh đến thấu xương! Vì thế, áo ấm, ngoài vẻ đẹp thẩm mỹ, người ta còn đòi hỏi ở chúng chức năng bảo vệ thân thể, luôn giữ cho thân thể đủ độ ấm và có lẽ nhiều người cảm thấy rất bất tiện khi „hữu sự“ bởi vì thân thể được bao bọc nhiều tầng lớp như vậy!
Điều tiếp theo làm tôi rất phấn chấn là được ngắm tuyết rơi, một hiện tượng trước đây chỉ được xem trên truyền hình hay phim ảnh, còn bây giờ là thực, đang diễn ra trước mắt, rất đẹp, rất lãng mạn! Những bông tuyết rơi, bay lượn như những cánh hoa, làm cho bầu trời hiện lên một màu trắng xóa. Chỉ một vài ngày sau, toàn bộ những mái ngói đỏ tươi hay bất cứ khoảng không nào trên mặt đất đều bị phủ một lớp tuyết dày đặc, nhìn cảnh vật chỉ toàn một màu trắng, tôi cảm tưởng như mình đang lạc vào một nơi nào đó thật xa lạ, nếu như không có bóng người, ai đó có thể đã gọi đây là xứ sở „thần tiên“ chăng?!
Tuy mùa đông giá lạnh và được bao bọc bởi màu tuyết trắng nhưng cũng có nhiều điều thú vị, bởi không khí hy vọng đan xen niềm vui của lễ Giáng Sinh như đang hé mở, làm cho lòng người tràn ngập niềm hạnh phúc và nhanh chóng quên sự lạnh giá của mùa đông. Để chuẩn bị lễ Giáng Sinh, người ta đã tổ chức các cuộc lễ hội tưng bừng giàu truyền thống Kitô giáo nhằm đánh dấu sự kiện quan trọng nhất trong năm. Các hội chợ liên tục được tổ chức, những cuộc thưởng lãm nghệ thuật liên tục được diễn ra, những người yêu mến văn hóa ẩm thực cũng có dịp được thưởng thức những sản phẩm nổi tiếng, và những người đến với lễ hội vừa khám phá vừa diễn tả những nét đặc sắc văn hóa của Áo.
Các chương trình ca nhạc cũng được dàn dựng công phu, những bài hát nổi tiếng thế giới xuất xứ từ Áo quốc như Weihnacht (Holy Night) của đồng tác giả Josef Mohr & Franz Xaver Gruber, năm 1818 được dịch ra nhiều thứ tiếng và được hát khắp nơi trên thế giới. Điều này không có gì lạ, vì Áo quốc được xem như một đất nước của âm nhạc, đất nước đã sinh ra thiên tài âm nhạc thế giới Wolfgang Amadeus Mozart (1756-1791) và là quê hương thứ hai của thiên tài âm nhạc Ludwig van Beethoven (1770-1827), vì ông sinh trưởng tại Đức nhưng nửa cuộc đời còn lại, ông đã chọn thành phố Wien cổ kính làm nơi cư ngụ và hoạt động âm nhạc lúc sinh thời.
Thế hệ trẻ người Áo, vì được sống trong bầu khí âm nhạc, lại được thụ hưởng kiến thức âm nhạc ở trường học nên hầu như bạn trẻ nào cũng giỏi nhạc lý và có thể chơi được một vài nhạc cụ. Từ đó âm nhạc đã hiện diện hầu hết trong mọi sinh hoạt đời thường của người dân Áo. Có lẽ ngoài ngôn ngữ, âm nhạc là phương tiện hữu hiệu truyền tải hết được mọi cung bậc cảm xúc của con người; là liều thuốc tinh thần có thể xoa dịu những căng thẳng trong cuộc sống; là thú tiêu khiển của những bậc danh gia vọng tộc, nếu xét về sự thưởng thức âm nhạc kiểu „bác học“; và là những đứa con tinh thần của những bậc thiên tài.
Có thể nói mục đích của những lễ hội trên là người Áo muốn diễn tả niềm vui qua những sự kiện giàu tính văn hóa, nhưng bên cạnh đó còn một mục đích quan trọng nữa là chuẩn bị tinh thần đón mừng Chúa Giáng Sinh và Năm Mới. Theo niềm tin Kitô giáo, Đức Kitô là Thiên Chúa, Ngài là vị vua Hòa Bình đến để ban bình an cho nhân loại, là Đấng giàu lòng thương xót đến để xoa dịu, ủi an và sẻ chia với những người đau khổ, đói nghèo và tuyệt vọng, hơn thế nữa, Ngài còn là vị Cứu Tinh đến để cứu con người khỏi kiếp nô lệ tội lỗi, sự chết và cho con người được hưởng ơn cứu độ.
Điều đặc biệt nữa là người Áo đã dùng âm nhạc và lễ hội để truyền tải nét văn hóa sống động giàu tính truyền thống Kitô giáo xua tan những ngày mùa đông buốt giá. Thiết nghĩ, trong những thời khắc vui mừng đón Giáng Sinh và Năm Mới, mỗi người trong chúng ta có thể đốt lên một ngọn lửa tình yêu làm xua tan những tấm lòng băng giá vì hận thù hay ghen ghét; nối dài những vòng tay yêu thương và bắc những nhịp cầu thân ái chia sẻ để nối liền những hố sâu ngăn cách và phân biệt; đồng thời cầu chúc cho mọi người trên đất nước Việt Nam và khắp nơi trên thế giới được hưởng một cuộc sống an bình, ấm no, hạnh phúc và nơi tấm lòng của mỗi người luôn có tình yêu, sự bình an và lòng vị tha ngự trị.
Áo quốc, 20/12/2009