Ở thời đại của chúng ta, con người không chỉ rơi vào khủng hoảng
kinh tế, khủng hoảng niềm tin… mà còn khủng hoảng tình yêu. Chưa bao giờ tình
yêu được người ta hô hào nhiều đến thế, nhưng cũng chưa bao giờ tình yêu lại
nhạt nhẽo đến thế. Tại sao lại có hiện tượng này? Người ta có thể đổ tội cho
Internet và sự đua đòi vật chất, nhưng ngẫm lại thì đấy không phải nguyên nhân
cốt lõi. Người ta nói: “Tình yêu chỉ có một, còn những thứ na ná tình yêu thì
vô số”. Ngay cả điều đó cũng không còn đúng nữa. Tất cả chúng ta đều rất dễ
dàng bị mắc kẹt trong ảo tưởng về tình yêu.
Không rõ từ khi nào khái niệm
“tình yêu” xuất hiện, nhưng mỗi người lại có một khái niệm riêng, mỗi nền văn
hóa, mỗi hệ tư tưởng, lại có cách định nghĩa khác nhau nhau về tình yêu. Nhưng
tất cả những tư tưởng, quan niệm, góc nhìn về tình yêu… đều nhảm nhí hết! Chính
bản thân sự định nghĩa hay mô tả về tình yêu đều trở thành một cái khung trói
buộc nó trong đó.
Ngày nay, sự va chạm của thông
tin đã khiến cho tất cả những góc nhìn, quan niệm, tư tưởng ấy bị vỡ vụn. Liệu
đây có phải là một cái gì đó đáng lo ngại về tương lai của nhân loại? Tôi không
cho là như thế. Ở những thời đại trước, một người không quá khó khăn trong việc
tìm kiếm tình yêu đích thực của mình. Thường thì người đó sẽ lựa chọn những
người bạn có cùng góc nhìn, quan điểm, tư tưởng và đạt một số tiêu chuẩn nào đó
của bản thân. Ví dụ như chàng Romeo si tình sẽ phải đóng cặp với nàng Juliet
thuần khiết; sẽ thế nào nếu Romeo cặp với nàng Carmen gợi tình và phóng đãng?
Cái khó khăn của thời đại trước là những ngăn cấm của dòng tộc, đẳng cấp… khiến
hai người yêu nhau gần như không thể đến với nhau. Nhưng sự va chạm liên tục
của các góc nhìn, quan niệm và tư tưởng giống như hiện nay đã trở thành thách
thức với tình yêu theo kiểu truyền thống. Sự va chạm này khiến con người phải
đặt lại sự nghi ngờ với những gì mình đã từng bị cài đặt hoặc đã từng tin tưởng
do ảnh hưởng của quá khứ, như từ bố mẹ hay các tác phẩm nghệ thuật…
Bởi thế, câu nói “Tình yêu chỉ
có một, còn những thứ na ná tình yêu thì vô số” đến nay không còn giá trị nữa.
Trong câu nói này, “tình yêu” được ngầm định nghĩa như một mối quan hệ gắn kết
thực sự giữa hai người. Câu nói này trong nhiều thế hệ đã gieo rắc một ảo tưởng
lớn trong tình yêu: rằng mỗi chúng ta sinh ra đều có một nửa đích thực của mình
lưu lạc ở ngoài kia. Vấn đề là không bao giờ có cái gọi là “một nửa đích thực”
để khỏa lấp những gì trống trải trong ta.
Chúng ta đều đang bị một loại
mặc cảm: mặc cảm Pigmaleon. Thời Hy Lạp có người nghệ sĩ điêu khắc vĩ đại tên
là Pigmaleon. Chàng đẽo được từ đá cẩm thạch hình ảnh một người phụ nữ tuyệt mỹ
và đặt tên là Galatea rồi suốt ngày âu yếm bức tượng mà không đoái hoài đến bất
cứ cô gái nào khác. Thần Vệ Nữ đã ban cho bức tượng sự sống, hai người đã có
một thời gian ân ái đằm thắm… Cho đến một ngày Pigmaleon bắt đầu thấy nhạt… ,
chàng ta lại quay về ngồi tiếc nuối bức tượng tuyệt mỹ mà nay đã là nàng
Galatea bằng xương bằng thịt.
Bạn có thấy rằng chúng ta giống
chàng Pigmaleon ấy không? Chúng ta vẽ ra trong đầu một hình ảnh về tình yêu lớn
trong cuộc đời mình với đầy đủ các tiêu chuẩn và thường có xu hướng yêu những
người đạt được phần nào các tiêu chuẩn ấy. Nhưng qua thời gian, chúng ta nhận
thấy rằng anh ấy/cô ấy không giống như mình tưởng tượng, và mối quan hệ bắt đầu
nhạt dần. Lúc ấy, hoặc là chúng ta chia tay để tìm kiếm một người khác giống
với sự tưởng tượng hơn, hoặc chấp nhận mối quan hệ nhạt nhẽo ấy và gắn vào đó
những lợi ích theo tiêu chuẩn xã hội.
Nhưng chẳng lẽ tình yêu đích
thực chỉ có giữa ta với lý tưởng về người tình của ta? Nếu vậy, chẳng hóa ra
mọi câu chuyện đẹp đẽ về tình yêu đều đáng vứt vào sọt rác? Chẳng lẽ cả thế
giới đều sống trong ảo giác về tình yêu? Điều này cũng không đúng nốt. Tình yêu
không phải là trò lừa dối vĩ đại của nhân loại, nhưng tình yêu lại là một điều
“bất khả tri”.
Chúng ta đã sai lầm ngay từ đầu
khi bó hẹp tình yêu trong phạm vi của mối quan hệ. Tình yêu không phải mối quan
hệ. Nếu nó chỉ đơn thuần là mối quan hệ thì nó quả thực là… nhạt nhẽo. Mối quan
hệ là một điều khả tri, tức là chúng ta có thể nhận định về nó thông qua một
vài tiêu chuẩn. Trong một mối quan hệ, dù thế nào đi chăng nữa, hai người luôn
có xu hướng ngầm đạt tới một sự thỏa thuận sao cho có lợi cho cả hai. Điều này
khiến cho mối quan hệ yêu đương chẳng khác mấy chuyện làm ăn buôn bán. Tôi cho
anh một cái gì đó, anh cho tôi một cái gì đó tôi trông chờ để đáp lại, và chúng
ta gọi đó là tình yêu? Nếu người kia đáp lại ta bằng một cái gì đó chúng ta
không mong muốn, hoặc có thể là không đáp lại, chúng ta vội vàng oán trách đối
phương là bạc bẽo, không chung tình và vô cảm.
Quá trình trao đổi này cứ lặp
đi lặp lại, đến mức nếu chỉ một lần sự cho đi và đáp lại không đúng quy trình
thì mối quan hệ lập tức lung lay và có nguy cơ tan vỡ. Sự nhạt không thể tránh
khỏi khi các mối quan hệ cứ diễn ra như vậy. Ngay cả ở những thời đại trước,
tình trạng “nhạt” này cũng xảy ra, đặc biệt là trong các gia đình quý tộc và
giàu có. Bởi vì, càng có đời sống cao (cả vật chất lẫn tinh thần), hình mẫu lý
tưởng của một người cũng theo đó mà tỉ lệ thuận và khả năng thất vọng về mối
quan hệ yêu đương của mình lại càng lớn. Còn ở thời nay, hình mẫu lý tưởng của
chúng ta không chỉ được quy định bởi truyền thống mà còn bị ảnh hưởng do sự
thổi phồng của truyền thông đa chiều. Chúng ta bước chân vào mối quan hệ vội vã
hơn, khám phá nhanh hơn đối tượng của mình, để rồi cũng nhanh chán hơn.
Nếu có thể ví tình yêu giống
cái gì, chỉ có thể ví tình yêu như không khí. Không khí vô định hình, bao trùm
tất cả nhưng ở trong tất cả, mang lại sự sống cho vạn vật một cách tự nhiên,
miễn là vạn vật vẫn còn khả năng hấp thu nó. Khi chúng ta đóng kín trong một
khuôn mẫu nhất định về tình yêu, chúng ta sẽ mất dần đi khả năng tiếp nhận tình
yêu từ người khác, cho đến một ngày chúng ta hoàn toàn đóng kín và ở bên trong
ta chỉ còn là “trạng thái chân không” của sự trống rỗng. Nhưng nếu chúng ta
không cố định hình tình yêu thì sẽ không có ảo tưởng nào cả và càng không phải
lo lắng về sự nhạt nhẽo hay đổ vỡ. Đương nhiên việc này không dễ. Vì tâm trí
chúng ta cần phải hiểu về tình yêu, chúng ta có tham vọng điều khiển được tình
yêu và áp đặt nó theo ý chúng ta muốn. Nhưng nhà thơ Xuân Diệu đã thốt lên một
câu vô cùng chính xác về đặc tính của tình yêu: “Tình yêu đến, tình yêu đi, ai
biết”.
Nhà phân tâm học Enrich Fromm
đã nói về tình yêu rất hay khi ông cho rằng động lực của con người khi tìm kiếm
tình yêu là một ham muốn hòa hợp. Nếu con người để tình yêu tuôn chảy tự nhiên
như không khí thì con người đã có thể đạt tới sự hòa hợp mà không cần bất cứ sự
nỗ lực nào. Khi ấy, chúng ta chẳng cần phải cứ khăng khăng hướng tình yêu của
mình đến một đối tượng nào đó cụ thể, chúng ta có thể hướng tới vạn vật.
Chúng ta có thể để tình yêu
tuôn chảy khi rung động trước vẻ đẹp của một bông hoa, khi chơi một bản nhạc
ngẫu hứng, khi mê đắm trong thế giới kỳ diệu của ngôn từ và hình ảnh… thậm chí
là khi chỉ có một mình và cảm thấy tràn ngập tình yêu. Tình yêu ấy có thể hướng
tới một người nào đó cụ thể và hãy hết mình trong mối quan hệ ấy mà không cần
trông chờ bất cứ một sự đáp lại nào. Khi nó kết thúc, không có nghĩa tình yêu
mất đi, mà đó là lúc chúng ta đang cần hướng dòng chảy tình yêu theo một con
đường khác. Tại sao phải quá nặng nề trong nỗ lực nắm bắt một cái gì đó vô định
hình. Người ta có thể đóng chai không khí nhưng không thể đóng chai tình yêu.
Và chỉ có giải phóng cho tình
yêu khỏi những ràng buộc, chúng ta mới đạt tới sự hòa hợp mà nhân loại hàng
ngàn năm vẫn không ngừng đeo đuổi.
Hà Thủy Nguyên
No comments:
Post a Comment