Tuesday 27 September 2011

TÌNH YÊU & TÌNH NGƯỜI

Một ngày mùa hè nóng nực, tình cờ gặp em, một người chưa hề quen biết, không phải trên mảnh đất hình chữ S mà ở một phương trời xa. Sau đôi lần nói chuyện, cuối cùng cũng hiểu chút ít … về em. Góp nhặt những mảnh vụn của câu chuyện, anh có đôi điều suy nghĩ về tình yêu và tình người, xem đây như một lời động viên gửi đến em.

Mọi tương quan giữa người với người nếu không xuất phát bởi tình người thì cũng có chung cội nguồn là tình yêu, bởi tình yêu được xây dựng trên nền tảng là tình người và có khi ngược lại. Tình người hay tình thương, còn được hiểu là tình bác ái, nghĩa là lòng yêu thương trải rộng, yêu thương hết mọi người, không trừ ai. Tình yêu thì có khác chút đỉnh. Ngoại trừ tình yêu dành cho Thượng Đế, cha mẹ, anh chị em thân thuộc, bất cứ khởi đầu nào của tình yêu nam nữ, đều có sự gặp gỡ, dù là trực tiếp hay gián tiếp, sau đó phát sinh tình cảm, rồi chuyển thành tình yêu.

Và em, vì là con gái, mang trong mình con tim khát khao của tuổi trẻ, cũng muốn yêu và được yêu. Nếu con cá cần môi trường nước để sống và để khám phá, thì con người cũng cần tình yêu làm chất xúc tác để tồn tại. Rồi bỗng một ngày đẹp trời, em bước vào thế giới yêu. Rất có thể ngày hôm đó tiết xuân dịu mát, hoa nở tươi, thoảng áng mây chiều đong đưa…em tìm được nửa kia của mình, thế là „cảm“, rồi yêu. Khoảng thời gian đó, đối với em, chắc chắn rất đẹp, rất lãng mãn, mọi thứ dường như trở nên dễ thương, lung linh, sắc thắm…

Nhưng tiếc thay, mọi sự đều có thể diễn ra trong thời gian. Vì con người chỉ có thể biết được quá khứ, không rõ ở thời điểm hiện tại, càng mù mờ ở „thì“ tương lai! Ai cũng biết tình yêu vốn cao quý, nếu không biết trân trọng, gìn giữ, tình yêu sẽ dần dần vuột khỏi tầm tay. Có thể do hoàn cảnh đưa đẩy hay một tác nhân ngoại cảnh nào đó, nhưng cũng có thể do lòng người toan tính, do dự hay trong tình trạng „tiến thoái lưỡng nan“, thế là đành ngậm ngùi nhìn tình yêu nói lời tạm biệt. Tình yêu đi rồi, tình người có còn được gọi tên?!

Em, một cô gái vui tính, giờ phảng phất nỗi buồn, như con bướm chưa kịp khoe sắc trong chiều xuân đã gặp cơn mưa xối xả buổi trưa hè, thế là tình hết, lòng đau…Nhưng cũng rất may, người ta nói: thời gian là phương thuốc có thể chữa lành mọi vết thương, điều này thật ứng nghiệm với em. Cứ một khi ta đánh mất một cái gì đó, ta lại nhận được một hay nhiều điều khác. Tuy nhiên, trong tình yêu không ai áp dụng mệnh đề „biện chứng pháp“, vì nếu cứ xây dựng tình yêu theo logic biện chứng, con người chẳng bao giờ tìm kiếm và sở hữu được tình yêu đích thực.

Phải chăng, cứ kinh qua một sự kiện, ta có thêm một kinh nghiệm để sống, dù đây chỉ là điều bất đắc dĩ thôi, chứ chẳng ai lấy đời mình ra làm thí nghiệm?! Từ giả thiết này, qua những gì đã xảy ra với em, anh nhận ra được em đã nhìn đời và nhìn người cách cẩn trọng hơn, nhưng cũng bao dung hơn, sâu sắc hơn. Mỗi bài học của cuộc đời, dầu muốn dầu không, ta không mua, cũng không trả bằng tiền, nhưng phải trả bằng nhiều thứ khác quý giá hơn, không tiện nói ra, nhưng ai cũng có thể thấu hiểu…

Từ những điều đã suy nghĩ trên, anh muốn nói với em mấy điều:

- Cuộc đời như dòng sông, có lúc trong, lúc đục, có lúc uốn quanh, có khi lại xuôi một dòng. Có thể tình yêu cũng vậy, cho dù chảy như thế nào, nhưng vẫn ước mong cho dòng sông tình yêu của em cứ chảy mãi và đừng bị ngắt quãng bởi ai đó cố tình chia cắt hay đắp đập, ngăn sông.

- Có thêm một người trong cuộc đời, em có thêm một người để yêu thương, nhưng nếu thiếu đi một người, cuộc sống vẫn tiếp diễn, và không có nghĩa đời em không còn đáng sống.

- Có nhiều cơ hội trong cuộc đời, chỉ sợ em không nhận ra để đón lấy.

- Có nhiều người tốt để yêu thương, chỉ sợ em không đủ kiên nhẫn để tìm kiếm.

- Có nhiều người quan tâm, yêu thương, chia sẻ những vui buồn với em, chỉ sợ em không biết họ để nói lời cám ơn…và còn nhiều điều nữa để em khám phá mỗi ngày.

Cuối cùng, chúc em hiểu được ý nghĩa của câu trong bài hát „Tình yêu, tình người“: „Nếu phải mất tất cả những gì tôi đang có, thì với TÌNH YÊU, tôi làm lại từ đầu“…

Hoan Nguyen, 27.09.2011
Viết tặng một người

Sunday 28 August 2011

ĐI MỘT NGÀY ĐÀNG…

Nghỉ hè – cụm từ quen thuộc và dường như đó là khái niệm rất đỗi bình thường ở trời âu, dẫu mình là khách thập phương xa lạ, dầu muốn dầu không, mình cũng được hít thở luồng không khí và chút gì đó bị „vùi“ trong nền văn hóa của họ, thế là người đi, ta cũng bước…

Chuyến đi được xem là mong đợi nhất trong năm, đó là cuộc hành trình về Madrid, nơi tổ chức sự kiện đại hội giới trẻ thế giới (WYD, 16-21.2011). Ngày mong chờ rồi cũng đến, bốn phương tụ về, Madrid mênh mông hoa lệ cũng trở nên chật chội, đâu cũng thấy bóng dáng của bạn trẻ, cười cười nói nói, đủ ngôn ngữ, sắc thái, văn hóa…Madrid trở thành mái nhà chung như vòng tay giang rộng, ôm ấp, chở che những khách thập phương.

Thời tiết tháng 8 ở Madrid quả là khắc nghiệt, nóng rát bỏng da, thế mà từng đoàn người vẫn vui tươi, hớn hở, đón nhận, tham gia các sự kiện của đại hội thật nồng nhiệt với một con tim cháy bỏng. Những tiếng hô vang chào mừng Đức Thánh Cha Benedict XVI; người người trong lòng tràn ngập niềm vui khi được tận mắt nhìn thấy vị cha chung đáng kính Benedict XVI, có cả những giọt nước mắt lăn dài vì niềm hạnh phúc tràn dâng.

Thời tiết ở Madrid cũng đỏng đảnh chẳng khác gì cô gái 16 tuổi, mưa nắng thất thường. Sau nắng là giông tố, giông tố qua đi, nắng nóng lại quay về gần. Tại sân bay Cuatro Vientos, các bạn trẻ đã kiên nhẫn dưới sự thiêu đốt của nắng nóng, đội mưa, chịu gió rét để được nghe những lời giảng huấn của Vị Cha Chung, để thờ lạy Thánh Thể, để được đắm chìm trong tình yêu vô bờ của Thiên Chúa và của tha nhân.

Với tình yêu Thiên Chúa, tại đây và ngay lúc này, mọi ngăn cách mà con người vô tình hay cố ý tạo ra để làm rào cản, ngăn chặn mối hiệp thông giữa người với người được xóa bỏ, mọi người lúc này chỉ còn một lòng một ý chiêm ngắm và trải nghiệm phút giây linh thiêng có một không hai trong cuộc đời mình. Đúng là „tín nghĩa ân tình nay hội ngộ, hòa bình công lý đã giao duyên“ (x.Tv 85, 11).

Với con mắt trần tục, chắc chắn có người đã gọi những bạn trẻ này, trong đó có tôi là điên, chỉ có điên mới làm những điều khác người như thế. Chẳng ai dại gì lại đội nắng nóng, mưa, gió lạnh.., để quy tụ, gặp gỡ, hát hò giữa một khoảng không bao la như thế. Nếu có người nghĩ thế cũng chẳng sao, vì họ điên thật, họ trở nên điên dại vì Đức Kitô (x. 1Cr 1, 27) đó thôi!

Bước đi để tới đích, mở mắt nhìn để thấy rõ…nhưng cũng nên khép kín bờ mi để thấu hiểu lòng mình. Những ngày tham dự WYD 2011, bản thân tôi giống như đã chạm vào ngưỡng cửa thiên đường vậy! Chắc chắn một điều những ký ức này sẽ cư ngụ lại trong tôi bao lâu tôi còn hiện diện trên thế gian này, và tôi tin rằng, nếu bạn đã được kín múc ơn thiêng từ một kỳ đại hội WYD, bạn cũng có cảm nhận như tôi vậy.

28.08.2011

Tuesday 26 July 2011

„TIẾU NGẠO GIANG HỒ“

Mùa hè… chờ  mãi rồi cũng đến, đến rồi lại thấy nó trôi nhanh qúa, mới đó mà nay đã là những ngày cuối tháng bảy rồi…Mong ước hè đến để có được những ngày nghỉ ngơi, xếp bút nghiên đại sự cho thảnh thơi đầu óc…nhưng không ngờ lại phải chiến đấu ở mặt trận khác…luyện chưởng!!!

Một vài bộ phim xem qua không để lại ấn tượng, nhưng xem hết bộ phim „Tiếu ngạo giang hồ“, tự nhiên ngộ ra nhiều điều.

Hầu hết các tiểu thuyết kiếm hiệp Trung Hoa, sau đó được dàn dựng thành phim, các tác giả đều xây dựng cốt truyện dầu muốn dầu không, lúc tỏ tường, lúc ám chỉ đều có tư tưởng của ba triết thuyết lớn Nho - Lão - Phật, có thể nêu một vài điểm chính:

Nho học đề cao tam cương, ngũ thường và xây dựng hình ảnh người quân tử như hình mẫu để mọi người nhắm đến. Đức tính của người quân tử là Nhân Trí Dũng. Trở thành người quân tử, tức là trở thành bậc thánh nhân, hiền triết. Để xây dựng một xã hội an hòa, mọi người quý yêu nhân nghĩa, cần phải có một minh quân.

Trong khi Lão học xem Đạo là con đường, là Thực Tại Tối Hậu, là khởi nguyên và là cùng đích của vũ trụ vạn vật, cũng có nghĩa là mẹ của muôn loài. Con người cần sống hòa hợp với thiên nhiên và tạo hóa, tuân theo quy luật của thiên nhiên, tu luyện để sống lâu và gần với Đạo. Người đạt Đạo chính là bậc quân tử.

Phật học nhìn nhận đời là vô thường, vô ngã nên con người phải chịu khổ. Mọi sự khổ đều phát xuất bởi lòng dục và vô minh.  Một khi dứt được những nguyên nhân đó thì con người có thể thoát khỏi vòng sinh tử. Điều làm cho chúng sinh còn vướng mãi trong vòng sinh tử được nhà Phật giải thích bằng thuyết Duyên khởi. Chấm dứt luân hồi, vòng sinh tử đồng nghĩa với việc chứng ngộ Niết bàn. Theo Tứ diệu đế, con đường dẫn đến Niết bàn là Bát chánh đạo.

Trở lại „Tiếu ngạo giang hồ“, khởi đi từ bí kiếp truyền lại của nhà họ Lâm gọi là "Tịch tà kiếm pháp", người luyện được kiếm pháp này có thể sở hữu tốc độ nhanh như chớp, võ công làm mưa làm gió chốn võ lâm.

Ý tưởng bá chủ võ lâm đã làm quay cuồng những kẻ hám danh, hám lợi, ích kỷ, nhỏ nhen, dấy lên từng cuộc tàn sát lẫn nhau giữa các cá nhân và các môn phái.

Vì tước hiệu „Thiên hạ đệ nhất“ những kẻ tiểu nhân đội lốt quân tử với những toan tính hiểm ác đã lôi kéo nhiều người vào vòng sinh tử oan khiên. Kẻ ngụy quân tử huênh hoang dạy đời, người tốt lại bị hiểu lầm, bị truy đuổi.

Qua những cuộc tương tàn này, người ta nhận biết được ai thiện, ai ác; ai chánh, ai tà; ai quân tử, ai tiểu nhân. Và cuối cùng, mọi sự đều sáng tỏ, thiện ác phân minh, chánh tà hiện rõ. Người quân tử để lại tấm sáng ngời về sự độ lượng, bao dung, biết nhân nghĩa, phải quấy…  Kẻ tiểu nhân tư lợi hẹp hòi, lòng dạ toan tính, tham lam rồi cuối cùng cũng bị diệt vong… Đây có thể là một kết thúc tốt mà mọi người xem đều mong đợi. Dụng ý và sự kết thúc có hậu này chắc chắn là tư tưởng của Nho học rồi.

Quan trọng nhất là nội dung xuyên suốt của cốt truyện, điều này không thể loại bỏ những tình tiết đan xen làm cho kết cấu phim logic và cuốn hút người xem. Chỉ tiếc rằng những đan xen ấy lại chính là mối thù hận giữa các môn phái, giữa các cá nhân. Đến đây, khán giả lại được ngộ ra sự kỳ diệu của giáo lý nhà Phật: „Lấy oán báo oán, oán oán chất chồng. Lấy ân báo oán, oán oán tiêu tan.”

Nhân vật chính của phim: Lệnh Hồ Xung và Nhậm Doanh Doanh – cặp uyên ương trai tài gái sắc nổi lên như những tượng đài để mọi người ngước nhìn, thán phục. Từng là kẻ thù không đội trời chung, hai người trở thành cặp tình nhân, vượt qua những mối rào cản, họ đã bảo vệ được tình yêu trong sáng, vị tha và giàu tình người. Bỏ qua nỗi oan nghiệt oán oán chất chồng, bỏ qua quyền lực danh vọng, hai người chọn cuộc sống ngao du sơn thủy, nhàn tản tiêu dao, trọn đời bên nhau mãi tấu khúc „Tiếu ngạo giang hồ“ bất hủ. Đến đây, nếu tinh ý một chút người xem đã thấy tư tưởng Lão học hiện rõ.

Xem xong, phải công nhận bộ phim này quá hay, diễn viên đẹp, tình tiết lý thú, những góc quay, hình ảnh trong phim thật tuyệt. Hơn nữa khúc „Tiếu ngạo giang hồ“ đúng là nghe mãi không chán…Tự nhiên vạn bối này cũng muốn tìm một…Nhậm Doanh Doanh nào đó kết duyên „sắt cầm“, bỏ lại „mái đình, làng biển“ để thỏa chí tang bồng…nhưng trộm nghĩ không biết mình sẽ để lại chiếc „áo Dòng và cuốn sách Kinh“ cho ai đây…???!!!

26.07.2011

Friday 8 July 2011

CÓ HAY CHĂNG „MỘT NGÀY NHƯ MỌI NGÀY“?

„Một ngày như mọi ngày“, sao bỗng dưng hôm nay lại khác thế? Bình minh đến muộn chăng? Không phải! Nhịp thời gian xoay vần, sao mặt trời lại lỡ hẹn được chứ? Tiếng chim vẫn hót, dòng nước vẫn chảy trong con suối nhỏ bên nhà, những nhánh liễu mềm mãi vẫn sải bóng thướt tha…Tại sao lại khác nhỉ?

Cuối cùng tôi cũng tìm được câu trả lời: Thường thì con người chịu tác động bởi ngoại cảnh, nhưng đôi lúc ngoại cảnh lại chịu sơn phết những gam xám buồn bởi những người vốn mang tâm sự, vì „người buồn cảnh có vui đâu bao giờ“, tiền nhân đã nói thế! Nhưng thật ra tâm trạng tôi cũng không đến nỗi buồn, vì chẳng có lý do gì để buồn, nhưng tự nhiên thấy người uể oải, thân nặng nề, tâm hồn trống trải…sao lại trống trải đến thế?

Như thường lệ, những bản tình ca trước đây mình thích, cứ mỗi lần buồn hay có chuyện gì căng thẳng, nghe một vài bài, niềm vui đã chợt đến, „và con tim cũng đã vui trở lại“; nhưng hôm nay nghe mãi, nghe hoài mà tâm hồn vẫn vô cảm, vẫn mênh mênh mang mang…

Nghĩ cũng lạ. Con người, giống như một mầu nhiệm chưa bao giờ được khám phá hết. Huyền bí. Lúc vui, lúc buồn, lúc dâng tràn niềm hạnh phúc, lúc lại thấy lòng trống vắng đến không ngờ.

Cuộc sống giống như một sân khấu đa chiều. Con người – những diễn viên bất đắc dĩ phải diễn cuộc đời mình trên sân khấu cuộc đời ấy: Cần có những lúc vui, hạnh phúc để thấy đời tươi đẹp, đáng sống. Có những lúc buồn, trống trải, bị bỏ quên để thấy đời cần có những bàn tay chia sẻ, nâng đỡ, có sự liên kết, mang tính xã hội. Có những lúc thành công để thấy những cố gắng, nỗ lực của mình được đền đáp. Cũng có những lúc thất bại để có thể cảm nghiệm được thế nào là ý chí vươn lên.

Cứ thế, có những đau khổ, bị bội phản để thấy được sự diện diện của niềm tin là cần thiết và quan trọng. Có những lúc tuyệt vọng, buông xuôi để nhận ra giá trị của niềm hy vọng mà tiến bước. Có những lúc trầm tư trong giây phút hiện tại để biết được tương lai cần gì và đích đến là đâu. Có những lúc vu vơ tưởng nhớ người này, bỗng dưng một loạt những ký ức đan xen của nhiều người lại đổ về, để thấy được quanh mình vẫn còn nhiều người thương yêu, quan tâm và dõi theo mình trong bước đường nhân sinh…

Từ một sự khác biệt của tâm trạng dường như tiêu cực hôm nay, tôi lại tìm ra được những điều khác biệt tích cực trong cuộc đời. Vì không chỉ con người mới huyền nhiệm mà cuộc đời của con người cũng huyền nhiệm không kém.  Bởi trong cuộc sống có rất nhiều điều bí ẩn và mới lạ để con người khám phá mỗi ngày. Mong rằng đừng lặp lại điệp khúc „một ngày như mọi ngày“ trong cuộc đời, nhưng là mỗi ngày tôi và bạn chọn được những niềm vui, đón nhận những điều mới, hạnh phúc và thành công.

08.07.2011

Friday 20 May 2011

„VÔ DUYÊN“ HAY „HỮU DUYÊN“

Sáng nay ngồi buồn, những cảm xúc ùa về trong ký ức, tôi bỗng nhớ đến hình ảnh, giọng nói của một người…Vì „xa người, xa cảnh, xa bến cũ“ nên chuyện „diện đối diện“ bây giờ chỉ còn là dĩ vãng…Ngẫm nghĩ trong giây lát, đâu đó xuất hiện một vài ý tưởng, tuy có thể nông cạn, thô sơ nhưng cũng không ngại ngùng chấp bút ghi lại, biết đâu, có thể sau này nó sẽ trở thành „kỷ niệm lần giở trong kỷ niệm“ chăng?

Mặc dầu xa cách về không gian, môi trường sống, văn hóa, ngôn ngữ… nhưng trong địa hạt tinh thần, chắc chắn ít có ranh giới, ngoại lực hay khoảng cách nào có thể ngăn cản, chia cắt tính liên đới của con người. Chuyện „anh ở đầu sông, em cuối sông“ không còn là vấn đề, vì người xưa có câu: „Hữu duyên thiên lý năng tương ngộ, vô duyên đối diện bất tương phùng“ hay „tuy không giáp mặt mà lòng vẫn nhớ thương“ là gì!

Nếu một chiếc lá, là một vật vô tri, lúc lìa cành, tự mình hóa kiếp, trở về với nguồn cội còn bịn rịn với nắng chiều, làn mây thoảng, ngọn gió xuân; với tình bằng hữu sâu nặng, tình huynh muội trong mối tương giao họ hàng "lá" của mình, rồi xao xuyến, chao nghiêng nói lời tiễn biệt, huống hồ là con người có lý trí và con tim, biết suy tư, biện biệt, có tấm lòng sâu thẳm, rộng lớn hơn cả đại dương; là đồng loại, lại không „đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu“ sao?

Nếu „ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau“, thì lúc này, con người, những thực thể cấu thành xã hội lại không thể hiện được bản chất „xã hội tính“ của mình sao? Nhiều người có thể bỏ ra một khoản tiền rất lớn để quảng cáo cho một sản phẩm chỉ xuất hiện một vài giây trên các phương tiện truyền thông. Chẳng lẽ chúng ta không thể hào phóng để một hình ảnh, một giọng nói, một kỷ niệm, một con người cụ thể nào đó xuất hiện qua vùng ký ức của mình miễn phí, mà con người đó thì có giá trị hơn vật chất gấp bội phần?

Trong cuộc sống đôi lúc cũng cần có những tình cờ, ngẫu nhiên, để làm gia vị cho cuộc đời thêm đẹp. Nhưng trong mối tương quan giao tế, cần có những người đi bước trước, chìa bàn tay kết tình thân ái với người đồng loại. Chúng ta không thể „gặp nhau làm ngơ“ hay „vô duyên“ với tha nhân. Ngược lại hãy „hữu duyên“ với họ trong mọi chi tiết nhỏ của cuộc sống: „Hữu duyên“ trong lý trí, trong tình cảm, trong tình liên đới, trong sự đồng cảm, hiểu biết và vị tha; trong sự quan tâm, động viên, nâng đỡ; trong tình yêu thương thật lòng với một con tim độ lượng và bao dung.

Nhớ, thương, yêu…là những yếu tố thuộc bản chất con người, khi thể hiện một trong những yếu tố đó, con người đang chứng minh mệnh đề „tôi hiện hữu trong tha nhân và tha nhân hiện hữu trong tôi“. Ngày xưa, Khổng Tử từng ấp ủ xây dựng xã hội trần thế theo phương châm: „Tứ hải giai huynh đệ“. Đó là một lời mời gọi, một điều mong ước, một cái đích của Khổng Tử trong việc xây dựng một xã hội an hòa và mọi người biết qúy trọng Nhân Nghĩa. Tôi và bạn cũng được mời gọi cùng chung tay góp phần tài năng, trí lực và con tim của mình để xây dựng xã hội mà Khổng Tử mong ước ngày xưa trở thành hiện thực trong thời đại hôm nay.

20/05/2011

Thursday 19 May 2011

SONG THUYẾT CHÀO ĐỜI!

Suốt một thời gian dài, người ta sùng thượng và quá đề cao lý trí. Đến thời cận đại, Descartes và Kant, hai triết gia tiên phong đặt lại giá trị của lý trí bằng “hoài nghi có phương pháp” và “phê bình lý trí ”.

Descartes xuất hiện, ông muốn trả lại cho triết học nội dung chính xác và minh bạch (claire et distincte). Vì vậy, ông cũng muốn xây dựng triết lý trở thành khoa học chính xác và minh bạch. Vì thế, ông hoài nghi tất cả nhưng hoài nghi một cách có phương pháp. Thế nhưng, có một điều ông không thể hoài nghi đó là: “Cogito ergo sum: tôi suy tư nên tôi hiện hữu”. Theo ông, suy tư và hiện hữu thuộc hồn nên chắc chắn (hồn và xác được Descartes coi như hai thực tại song song). Ông đồng hoá hồn và suy tư là một, khả năng suy tư chứng minh hồn hiện hữu.

Từ đó làm tiền đề cho ông kết luận: khả năng độc đáo của hồn là suy tư, ông cho rằng những gì có trong trí mới là thực, những gì không có trong trí tôi thì coi như không có. Vì ở điểm này mà thuyết Duy tâm được nảy sinh.

Trái lại, Kant cho rằng, khi con người - chủ thể quan sát một đối vật, chúng ta chỉ biết được hiện tượng (phenoméne) bên ngoài bằng giác quan, còn vật tự thân (nouméne) chúng ta không thể biết được.

Theo Kant, hiện tượng nằm trong không gian và thời gian, nhưng không gian và thời gian tiên thiên, chúng có trong đầu tôi, tức bỏ vào những phạm trù có sẵn trong đầu tôi. Do đó, khi tôi quan sát sự vật, tức đưa sự vật vào những phạm trù tiên thiên trong đầu rồi mới biết cái đó là gì . Vì điểm này mà Kant mở đường cho Duy tâm.

Mặt khác, theo Kant, chúng ta chỉ biết được hiện tượng của sự vật, còn vật tự thân, chúng ta không thể biết. Chúng ta biết được sự vật là nhờ hồn, nhưng ở đây ta chỉ biết được vật bằng sờ mó, cân đo, đong đếm. Vì thế, chúng ta chỉ dừng lại ở sự vật. Điều này đã làm tiền đề cho thuyết Duy vật: Tất cả chỉ là vật chất, chỉ vật chất mới thực hữu và Duy vật thuyết cũng được manh nha từ đó.

Tóm lại, sự xuất hiện của Descartes và Kant được coi như cuộc cách mạng “Copernic” về tư tưởng triết học. Nhân loại ghi nhớ công lao to lớn của hai ông, nhưng cũng rất buồn vì từ triết học của hai ông mà đẻ ra nhiều thứ “duy” về sau, dẫn đến chối bỏ sự hiện hữu của Thượng Đế cũng như vai trò của Ngài trong vũ trụ này.

NVH

Saturday 23 April 2011

NHỊP BA CỦA NIỀM VUI

Thời gian, sự kiện và mầu nhiệm là những mắt xích biến những điều không thể thành có thể, cụ thể:

Mùa chay chỉ còn tính bằng giờ, có nghĩa là Tuần Thánh cũng sắp qua và niềm vui Đức Kitô phục sinh đang cận kề. Tối nay niềm vui Đức Kitô Phục Sinh sẽ vỡ òa trong lòng các tín hữu, trong đó có bạn và có tôi.

Cầu mong tất cả mọi người mừng lễ Phục Sinh tràn đầy niềm vui và ân sủng của Đức Kitô. Đây là thời khắc xiềng xích tội lỗi được tháo cởi, lối vào cõi trường sinh đã được khai mở và Chủ Nhân nước trời đang chờ đón những ai thực sự mặc con người mới trong Đức Kitô, Đấng đã chiến thắng tội lỗi và sự chết để bước vào vinh quang.

Bạn và tôi – được mời gọi làm người – đó là một phép lạ, được mời gọi làm con Thiên Chúa, qua bí tích Rửa tội và gia nhập Hội thánh, đó là một chọn lựa, đồng thời là một ân ban; được Thiên Chúa, qua Đức Kitô cứu chuộc, đó là một mầu nhiệm mà lý trí con người không phải ai cũng hiểu thấu.

Vì thế, hãy sống, hãy tin tưởng, chiêm nghiệm, phó thác vào Thiên Chúa và trở nên “hoàn thiện như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện”.

Chiều thứ 7 TT, 23/04/2011

Wednesday 20 April 2011

HỎI ÁNG MÂY CHIỀU

Chiều một ngày tháng tư, nắng vẫn còn chạy dài trên những vòm lá, trời cao, xanh biếc nhưng không khí vẫn lành lạnh…Cảnh vật, lòng người và một chút gì đó xao xuyến, bồi hồi đánh động những tiềm thức tưởng chừng như đã ngủ quên của thời đại về một thời xa xưa, được tái hiện, quay về bây giờ và chính lúc này, ngay trong tôi, như một thực tại có thể đụng chạm được bằng xúc giác.

Một sự kiện, cách đây hơn hai ngàn năm, xảy ra trong một đất nước nhỏ bé xa xôi có tên là Israel.

Một con người - chính xác hơn là Thiên Chúa làm người - mang tên Giêsu, hiện thân của tình yêu. Đức Giêsu đã yêu đến si mê những „nhân tình tội lỗi“ là con người, những thụ tạo do Ngài dựng nên. Ngài chấp nhận khổ hình, chết và sống lại - một phương thế trong muôn ngàn phương thế - để cứu độ con người.

Chịu khổ hình, Ngài đồng cảm với con người khi phải đối diện với bệnh tật, những nỗi khổ đau của kiếp nhân sinh. Qua qua cái chết, Ngài cho thấy thân xác con người chỉ là hữu hạn, bất túc và hư nát. Ngài đã phục sinh, chứng tỏ Ngài chính là Thiên Chúa, đã chiến thắng sự chết để bước vào vinh quang. Qua sự kiện Phục sinh, Đức Giêsu đã mở toang cách cửa Nước Trời, cho con người được tham dự vào cuộc sống thần linh, một trạng thái hạnh phúc miên trường.

Thế nhưng, trời vẫn cao, nắng cứ chiếu tỏa, chim cứ hót, thời gian cứ xoay vần, tạo vật cứ nẩy sinh…nhưng lòng người vẫn cứ lạnh lùng và khóa chặt cánh cửa tâm hồn, không có chỗ cho Đấng tình yêu ngự trị.

Con người vẫn cứ thờ ơ, cứ lầm hay vô tình, xem như chuyện xảy ra cách đây hơn hai ngàn năm tại Israel chẳng có chút liên hệ gì đến bản thân mình, đến cuộc đời này và đến thế giới này!

Tiền bạc, của cải xem ra hấp dẫn đối với con người hơn là một Thiên Chúa chịu đóng đinh? Đối với con người: Danh vọng – những hào quang sáng chói - dễ sở hữu hơn là chấp nhận thân phận „làm con“ Thiên Chúa? Những thú vui xem ra dễ „cảm“ và dễ chịu hơn là sống khắc khổ, hy sinh?


Phản tỉnh, trở về để được Thiên Chúa tha thứ, yêu thương và được cứu độ, đó thái độ cần thiết nhất và đẹp lòng Thiên Chúa nhất, còn chần chờ gì nữa, hãy bắt đầu lúc chưa muộn và khi trời còn sáng…

Trầm tư, suy nghĩ và tự đặt câu hỏi trong một buổi chiều lộng gió, tôi hỏi vào khoảng không, hỏi áng mây chiều nhưng cũng đang tự vấn chính tôi và chính bạn đó!

TT, 19.04.2011

MỘT VÀI CẢM NGHĨ VỀ TUYỆT PHẨM “GLADIATOR”

(Hơn một lần bạn đã xem những tác phẩm điển ảnh nổi tiếng và chúng đã để lại cho bạn nhiều ấn tượng đẹp? Tôi cũng thế. Bộ phim “GLADIATOR - Dũng Sĩ Giác Đấu ” đã để lại trong tôi những cảm nghĩ rất riêng...)

Con người được sinh ra, sống trong cuộc đời và lúc lìa khỏi đời, không còn hiện hữu trên thế giới này nữa giống như gió thoảng, mây bay không để lại vết tích. Thế nhưng, một chiếc lá lìa cành, trở về với nguồn cội còn muốn làm được điều gì đó để lại trong lòng đất, làm cho đất phì nhiêu, cho cây cối đâm chồi nảy lộc. Con người cũng thế, đi vào cuộc đời, sống trong cuộc đời, khi nhắm mắt lìa đời cũng muốn có danh gì với núi sông.

Sinh vào cuộc đời, dầu muốn dầu không, con người cũng phải chấp nhận thân phận người, phụ thuộc vào thời gian, không gian, môi trường sống… Con người tuy nhỏ bé nhưng ước vọng và hoài bão thì quá lớn lao, lớn hơn bầu trời, không thể đo lường được! Tham vọng, đam mê có thể là những liều thuốc thần dược bồi bổ và làm điểm tựa cho con người đạt đến mục đích. Con người xây dựng cuộc sống qua muôn hình muôn vẻ. Từ tư tưởng, ước vọng và hoài bão cao đẹp cho đến những điều xem ra làm cho con người không xứng đáng với phẩm giá con người nữa.

Bởi thế, tư tưởng, chính trị, quyền lực, danh vọng, hạnh phúc, tình yêu, hận thù, gian xảo… là những đích ngắm của người này nhưng cũng là điều đáng tránh của người khác. Đó cũng là những vấn đề không của riêng ai nhưng đối với những người có tham vọng, muốn làm nên lịch sử, muốn tạo dấu ấn với đời thì những thứ kia là những cái đích họ nhắm tới. Tất cả những điều trên chúng ta gặp thấy trong tuyệt phẩm “Gladiator”.

Vào thời hoàng kim, đế quốc La mã trải rộng từ sa mạc Châu Phi đến biên giới miền bắc Anh quốc. Hơn ¼ thế giới sống và chết dưới sự cai trị của các Hoàng đế La mã. Mùa đông năm 180, cuộc chiến với những bộ tộc rợ Germania của Hoàng đế Marcus Aurelius đã đến lúc kết thúc, mở ra triển vọng hoà bình trong toàn cõi đế chế. Marcus Aurelius là một hoàng đế La mã. Trên cương vị của một vị vua, ông là người thống nhất được toàn cõi đế chế, là một vị vua tài ba, anh minh, can đảm. Ông có công dẹp các dân rợ là mối hiểm hoạ cho đế chế của ông. Vua Marcus Aurelius còn là một triết gia, theo trường phái khắc kỷ, ông hiểu rõ thân phận con người mong manh và luôn muốn được sống hạnh phúc. Chứng kiến cảnh chết chóc của dân chúng do chiến tranh gây ra, ông cảm thấy đau lòng. Nhờ suy tư triết học, ông muốn tái lập triều đại vững mạnh, quốc thái dân an, con dân được hạnh phúc và  không còn bóng dáng của chiến tranh. Ông có hai người con: công chúa Lucilla và hoàng tử Commodus. Lucilla thì hiền lành, thông minh, điềm đạm, có tài xoay xở. Vua cha đã có lần khen nàng như sau: “Nếu sinh ra con là một người đàn ông, con sẽ là ông vua tài giỏi”. Thế nhưng, theo tục lệ, hoàng tử Commodus sẽ kế nghiệp vua cha, làm hoàng đế La mã. Biết rõ tâm địa ác độc, gian xảo, nhẫn tâm của Commodus, Marcus Aurelius không đành lòng trao vương quốc cho người con bất tài ấy. Ông muốn gã công chúa Lucilla và trao quyền điều khiển đế quốc cho Maximus, một vị tướng tài ba, tinh thông võ nghệ, đánh dông dẹp tây nhưng cũng rất đỗi trung thành với Roma và với Marcus Aurelius.

Tuy nhiên, vị tướng này đã có vợ con nơi thôn trang. Sau cuộc chiến cuối cùng, Maximus  muốn được lưu lại nơi quê nhà yên bề gia thất, dã từ vũ khí, vui sống cảnh điền viên, sống cuộc đời chân lấm tay bùn mà thơ thới bình an. Nhưng trở về quê nhà, đối với Maximus chỉ còn là ước mơ vì vua Marcus Aurelius muốn Maximus nối nghiệp mình, lãnh đạo đế quốc. Tiến thoái lưỡng nan, Maximus phải chọn Roma, sự trung thành với nhà vua và gia đình vợ con; một quyết định rất khó đối vơi Maximus.

Commodus biết được ý định của vua cha, nên đã nhẫn tâm giết người cha ruột bằng một cử chỉ ôm hôn cung kính, rồi tiếm ngôi, hành động này nói lên tâm địa độc ác của Commodus.

Lên ngôi hoàng đế, Commodus cai trị dân chúng bằng dường lối “nắm đấm và ổ bánh mỳ”, tức khôi phục lại trường giác đấu, lo ăn chơi hả hê trên nhưng giọt máu và cái chết của những dũng sĩ mang danh nô lệ. Không những thế, Commodus còn được người đời tặng cho danh hiệu không mấy tốt đẹp là “ông vua bạo dâm”, dan díu với cả Lucilla, chị ruột của mình. Khi lên ngôi vua, Commodus manh tâm giết Maximus và vợ con vị tướng này. Chiếu chỉ được ban ra, Quintus hạ lệnh giết vợ con của Maximus, còn Maximus thoát khỏi cái chết nhờ sự tài ba của mình, giết những tên lính thi hành án. Về lại được quê nhà, nhìn cảnh tiêu điều của ngôi nhà đã bị thiêu rụi, vợ con đã bị giết chết, đau lòng trước cảnh tang thương này, lại vừa bị thương, Maximus đã nằm bất tỉnh. Một đoàn người Ả rập đã bắt Maximus, đem bán cho Proximus, một ông bầu của trường giác đấu. Trở thành nô lệ, sống trong cảnh “cá lớn nuốt cá bé”, phải chứng kiến những cái chết bi thương và những lời tung hô ghê rợn, cuồng loạn của dân chúng. Nhờ tài võ nghệ, đánh đâu thắng đó, Maximus và những người bạn của ông được Proximus đưa về Roma đấu với những tên thiện xạ tại hý trường Colesium. Về nơi cố quận, Maximus  gặp lại cố nhân Commodus  và Lucilla, tình yêu chớm nở nhưng lòng trung thành với Roma và với Marcus Aurelius  như tiếp thêm sức mạnh, ông quyết định bước đi con đường chính nghĩa, tức thực hiện lời hứa với Marcus Aurelius mà Maximus coi như cha mình là lập viện Nguyên Lão, tập hợp gồm những bậc hiền triết cao minh do chính các bộ tộc trong đế quốc bầu lên để hợp tác lãnh đạo và cố vấn cho hoàng đế, mở ra thời kỳ cộng hoà, con dân được tự do.

Gặp lại Maximus, Lucilla càng đau lòng vì tình yêu trắc trở của nàng và Maximus không thành, đồng thời phải cung phụng đứa em Commodus như một vương phi. Chính trường rối ren, tình duyên trắc trở nhưng Maximus vẫn một mực trung thành với Roma và với cố hoàng đế Marcus Aurelius. Được sự giúp đỡ của Gracchus và Lucilla, Maximus có thêm nghị lực, giết Commodus, lập nên chế độ cộng hoà, đứng đầu là viện Nguyên Lão. Tuy Maximus không thoát khỏi bàn tay ác độc của Commodus, nhưng cái chết của Maximus mở ra một thời kỳ mới, thời kỳ con dân Roma được tự do và đế quốc Roma bước vào trang sử mới. Còn cái chết của Commodus là một cái chết nhục nhã của một kẻ tội đồ, một người đáng lẽ không nên xuất hiện trong sử sách huy hoàng của Roma.

Tóm lại, những biến cố lịch sử, những con người đã từng làm nên lịch sử, các hoàng đế, các vị tướng, những người dân đã được tái diễn trên màn ảnh sống động. Chúng ta không những chỉ nghe nói, đọc lại từng trang sử oai hùng, bi thương mà còn có thể cảm, sờ mó được những con người thật trên màn ảnh. Một vị vua anh minh và cũng là một triết gia, Marcus Aurelius đã để lại cho người hôm nay những trăn trở của thân phận làm người, làm thế nào để quốc thái dân an, con người được hạnh phúc. Một vị tướng tài ba, trung thành, Maximus đã làm cho biết bao nhiêu người ngưỡng mộ không những về tài năng mà còn về lòng trung thành. Một công chúa Lucilla thông minh, tài giỏi nhưng đã không thể vượt qua quyền lực và lòng nhẫn tâm của đứa em trai Commodus. Một vị vua gian ác, độc địa, gian xảo Commodus đã để lại cho lịch sử những vết đen không thể nào tẩy xoá. Những sự kiện, những con người, và cả nội dung của tác phẩm “Gladiator” đã để lại cho người xem những điều phải suy nghĩ và đem lại những bài học quý giá. Nếu chúng ta dành một chút thời gian ngẫm nghĩ, ta sẽ tìm ra được những điều lý thú từ tác phẩm đó.

Thế nhưng, việc phân tích, lượng giá toàn cục tác phẩm “Gladiator” là một điều rất khó, trong bài này, người viết chỉ chọn những nhân vật và những sự kiện chính để phân tích, lượng định, nêu lên những ưu khuyết của những nhân vật và các sự kiện ấy và thêm một chút suy tư về Roma hôm nay được khởi sự trên mảnh đất và trên chính triều đại Marcus Aurelius và Maximus đã cố công gầy dựng ngày xưa ấy.
         
Dòng thời gian trôi từ qúa khứ đến hiện tại và chuyển dần về tương lai, đã có biết bao thời đại, con người, đế chế, sự kiện qua đi nhưng lịch sử vẫn còn đó. Để xây dựng một đế quốc, phải có những người tài giỏi, thông minh, lòng trung thành, can đảm… La mã là đế quốc hội đủ những điều kiện trên. Vua Marcus Aurelius, một triết gia lỗi lạc, Maximus, một viên tướng tài giỏi, can đảm, trung thành với vua, với Roma; ngoài ra còn có nhiều người thông minh tài giỏi khác đang một lòng vì Roma giàu mạnh, bá chủ toàn cõi lục địa già. Đó cũng là một điều rất dễ hiểu là tại so đế quốc Roma lại hùng mạnh và bá chủ một vùng đất rộng lớn đến như vậy.

Bành trướng về sức mạnh quân sự là một việc làm cần thiết của các cường quốc vì qua đó để giới thiệu với thế giới về sức mạnh vốn có của mình và cũng đưa ra những thông điệp nhằm răn đe những kẻ có thể tranh giành miếng bánh và chiếc ghế quyền lực họ. Khai hoá những dân tộc mọi rợ, man di được xem là bổn phận và trách nhiệm của những bậc quân vương thời đó, nhằm mở rộng đế chế và cho họ chút ân huệ, tức đem ánh sáng văn minh soi vào những nơi tăm tối. Đó phải chăng là những điều mà Marcus Aurelius đã từng nghĩ ? Ông không ngừng đánh chiếm các dân rợ với nguyện vọng thống nhất đế quốc và ông đã làm được điều đó. Chiến thắng bao giờ cũng vẻ vang, thế nhưng việc đổ máu  những người vô tội sẽ làm cho những người có “chính tâm” không thể ăn ngon ngủ yên.

Chiến tranh là điều vinh quang cho kẻ bất khả chiến bại nhưng là tội ác mà người chiến thắng phải mang theo. Sự chết chóc, tàn bạo, thương tổn của chiến tranh là điều ghê rợn nhất trong lịch sử nhân loại. Một con người có tâm hồn thanh cao, minh triết thế sự như hoàng đế – triết gia Marcus Aurelius có lẽ biết rất rõ điều đó. Nhưng thời cơ đun đẩy, cờ đến tay lẽ nào Marcus Aurelius không phất? Việc thống nhất Roma là một chiến công vĩ đại, được dân chúng tán thưởng không ngớt. Điều cần làm lúc này không gì khác là tạo dựng một đế chế quốc thái dân an, mọi người được hạnh phúc. Vì theo Marcus Aurelius, “nhiệm vụ của triết gia là đem đến cho con người niềm an ủi và sự thư thái tinh thần. Bởi vì những gì con người tạo ra đều nhất thời, chỉ có cái chết mới là vĩnh cửu, vì thế hãy sống thực hồn nhiên”, mà ông là một hoàng đế – triết gia nên sứ mệnh đó đối với ông càng cao cả biết bao! Ước muốn của ông là lập viện Nguyên Lão tập hợp gồm những bậc hiền triết cao minh do chính các bộ tộc trong đế quốc bầu lên để hợp tác lãnh đạo và cố vấn cho hoàng đế. Rất tiếc ước vọng đó ông đã không kịp thực hiện, vì tuổi già xế bóng đã đến gần và nội bộ gia đình lại rối ren.

Thấy trước viễn cảnh không mấy tốt đẹp, tuổi già, sức yếu, Marcus Aurelius đã tính sẽ giao quyền cho Maximus, người sẽ kế vị mình lãnh đạo đế quốc. Nhưng tại sao Maximus lại được Marcus Aurelius chọn làm người thực hiện ước mơ của ông mà không phải là hoàng tử Commodus, con của ông? Như chúng ta đã biết, Maximus là một vị tướng anh dũng, đánh đông dẹp tây, đi đến đâu là chiến thắng tới đó. Maximus là một người quân tử mà một người quân tử thì làm tất cả vì nghĩa chứ không vì lợi. Maximus là người quân tử vì đối với gia đình, ông giữ trọn chữ Trinh Tiết, một người chồng, một người cha tốt, dù phải chiến đấu nơi sa trường, nơi biên ải xa xôi nhưng trong lòng Maximus không bao giờ vắng bóng người vợ hiền và đứa con thơ. Theo Đông phương thì Maximus là một người giữ đạo phu - phụ và phụ - tử một cách mẫu mực. Tuy nhiên, gia đình dù có thiêng liêng, cao cả đến mấy Maximus cũng sẵn lòng hy sinh việc tư để lo việc công. Việc công đó là gì nếu đó không phải là việc nước, việc của đế quốc? Maximus là một người rất trung thành với vua và còn hơn thế nữa là ông trung thành với Roma.

Hiểu được bổn phận của một người con của đế quốc, ông ra sức thực thi điều vua Marcus Aurelius truyền. Maximus là một vị tướng trung với vua, hiếu với dân, với gia đình. Ông giữ đạo quân - thần, trung với minh quân, tức hoàng đế Marcus Aurelius. Maximus đã thể hiện nguyên tắc đối xử, theo Đông phương, là Trung và Thời, có nghĩa Maximus không bao giờ suy nghĩ, hành động một cách thái quá hay bất cập mà thể hiện đường lối Chiết Trung, tức dung hoà giữa hai thái cực và biết dựa vào Thời để hành động. Maximus hành động như một người biết “cách vật”, hiểu tường tận về con người, tư tưởng, đường hướng của Marcus Aurelius. Maximus cũng biết đế quốc và Roma đang cần gì nơi mình. Maximus cũng là người “trí tri”, tức có một tri thức xác đáng khả dĩ, “thành ý và chính tâm” nên “tu thân” rồi mới “tề gia, trị quốc” và cuối cùng là “bình thiên hạ”. Maximus không nhỏ nhen ích kỷ chờ đợi thời hay nhân dịp mọi người đang tán thưởng mình, biết nội tình hậu cung của Marcus Aurelius để cướp ngôi, truất phế người tiền nhiệm nhưng là giúp nước, phò vua, biết người biết ta. Nếu vì lợi, tức hành động của kẻ tiểu nhân, Maximus có thể lợi dụng cơ hội để cướp quyền thế ngôi nhưng Maximus đã không làm như thế. Điều đó cho thấy Maximus đúng là vị tướng “chính danh”, sống thực như ông vốn có, xứng đáng bậc quân tử.

Maximus là một vị tướng giỏi, một con người tài ba, đức hạnh, can đảm. Maximus dũng cảm xả thân vì nghĩa. Thế nhưng, người làm điều thiện lại là người không được hưởng thành quả tốt đẹp cho riêng mình. Thử đan cử một vài sự kiện để chứng minh điều đó: vợ con của Maximus chết, riêng Maximus thì thân bại danh liệt, bị Commodus lôi xuống khỏi vũ đài chính trường cũng như chiến trường. Lịch sử bao giờ cũng là lịch sử, nó có thể là nền làm nên vinh quang cho một ai đó nhưng cũng rất đỗi phủ phàng. Con người làm nên lịch sử, nhưng lịch sử cũng có lúc nhấn chìm con người, thể chế, chính trị… vào trong cõi “vô thức” của lịch sử. Họ không còn hiện hữu dù là một cái tên, một hình bóng giữa hiện tại cũng như trong tương lai. Đó là sự thật quá phủ phàng phải không? Con người sống, muốn tìm cho mình một chút gì để khai sáng, bồi đắp cho cuộc đời thêm đẹp, thêm tươi. Do đó, chính trường cũng có thể là mồ chôn, cũng có thể là đài vinh quang của những vị tướng, của những đoàn quân. Nhưng chiến tranh cũng có lúc phải kết thúc. Danh vọng cũng có lúc phải phai tàn, chỉ có tình yêu mới còn mãi.

Khi nói đến tình yêu là nói đến tình yêu giữa người này với người khác, giữa nam với nữ, giữa vợ chồng với nhau. Trong tuyệt phẩm “Gladiator” cũng cho ta thấy có một thứ tình yêu khắc khoải chờ đợi, một tình yêu chân chính nhưng cũng có một thứ tình yêu vượt quá mức luân lý cho phép. Đó là lý do tại sao chúng phải nhắc đến mỹ nhân Lucilla, ái nữ, công chúa của hoàng đế Aurelius.

Như trong phần tóm tắt đã nói đến, Lucilla là một người thông minh, nhan sắc, bản lãnh. Thế nhưng, Lucilla đã bước vào một ngã rẽ, một con đường mà cho đến bây giờ nhiều người khó chấp nhận đó là trở thành người tình, người vợ của Commodus, em trai nàng. Người ta có khi định đoạt và ban ra những điều luật cho cả một đế quốc nhưng không thể ra luật, định hướng đi cho chính mình, thế mới thấm thía câu nói của cổ nhân “thắng được vạn quân địch không bằng thắng chính mình”. Nếu phân tích tâm lý nhân vật Lucilla trong tác phẩm “Gladiator”, chúng ta thấy nàng là một người bất hạnh hơn ai hết, với ánh mắt đượm buồn và một tâm hồn ray rứt, bị hoàn cảnh đẩy đưa. Nàng biết rằng con đường nàng đang bước đi không bằng phẳng, êm ả chút nào nhưng gồ ghề của lòng người sỏi đá, thiếu vị ngọt của một tình yêu chân thật. Tình yêu chân thật đối với nàng như cơn mưa rào rơi rớt vào một ngày đầu hạ, như màn đêm chờ tia nắng bình minh và không biết lúc nào những giọt mưa ấy, ánh sáng bình minh ấy mới dọi chiếu vào một tâm hồn hiu quạnh giữa hai nỗi cô đơn đi về của nàng, một dành cho Commodus và một dành cho Maximus. Nàng đang bắt trái tim và khối óc phải phụ thuộc vào một tên đê tiện mang danh là hoàng đế như Commodus. Khi không đi đúng đường ngay lẽ phải, nàng đang cố đuổi bắt một hạnh phúc giả tạo để rồi thất vọng ê chề với một con tim trống vắng tình yêu.

Cuối cùng Lucilla cũng ngộ ra, nàng biết rằng tình yêu của mình phải chăng xứng đôi vừa lứa với Maximus (lúc này Maximus chỉ còn một mình vì vợ con đã mất)? Thế nhưng nguyện vọng chính đáng đó của nàng cũng khó mà thực hiện được. Bởi Maximus vì Roma mà hy sinh tình cảm riêng tư của mình, dù đó là một nhu câu chính đáng. Hai tấm lòng như hai bờ sông không gặp được nhau khi chưa có chiếc cầu mang tên là tình yêu nối kết, và phải chăng nhịp cầu hạnh phúc đó phải mang tên là hôn nhân?  

Thế nhưng, tình duyên không thành, kẻ không muốn thì phải sẵn sàng chia sẻ, người ước mong lại tỏ ra hững hờ. Tình chợt đến chợt đi, tình ngủ quên trên đồi vắng, chỉ có tình ở lại mới là tình đẹp, nhưng tình ở lại đối với Lucilla cũng chỉ là một giấc mơ dài và phải chăng đó cũng chỉ là một tình yêu đơn phương? Lucilla đã nuôi hy vọng, vun đắp mối tình với Maximus, để cho mối tình chân chính với Maximus có dịp lên mầm, nở hoa nhưng tình đó cũng chỉ có thể trong tâm hồn của hai kẻ cô đơn mà thôi. Maximus có thể cô đơn khi người vợ và đứa con thân yêu không còn, Lucilla cũng có thể cô đơn vì phải tình chung mà dạ riêng với Commodus, em nàng. Lucilla phải lựa chọn giữa hai con đường, con đường trung thành với cha mình nhưng cũng đồng thời thương đứa em và cũng là “chồng riêng” của mình.

Nếu Lucilla không vướng vào vòng vây của Commodus, có lẽ nàng sẽ là một cô gái chính chuyên, công, dung, ngôn, hạnh và lịch sử muôn đời sẽ cúi mình thán phục nàng! Nhưng sự thật đã không được như thế.

Nếu hoàng đế Marcus Aurelius, Maximus và có thể cả Lucilla nữa đại diện cho nhưng người tốt, tức đứng trong hàng ngũ chính nghĩa thì bên kia ranh giới của chính nghĩa là phi nghĩa, ta thấy thấp thoáng một kẻ đê tiện có tên là Commodus. Nếu theo Hégel, K. Marx, mọi sự phát triển được là do đi qua tiến trình biện chứng: đề, phản đề và hợp đề thì chúng ta có thể so sánh: hoàng đế Aurelius, Maximus và Lucilla chính là Đề, Commodus là Phản Đề và chúng ta sẽ thấy được hợp đề là gì.

Tại sao gọi Commodus là phản đề, điều đó quá đáng lắm không? Câu trả lời có lẽ là không. Như chúng ta đã biết, Commodus là một kẻ nhẫn tâm, tàn ác, sẵn sàng giết cha mình, giết tướng Maximus cùng vợ con của vị tướng này, và cũng sẵn sàng lôi kéo Lucilla, chị của mình vào con đường tội lỗi.

Commodus là vật cản đường bẻ gãy ý tưởng quốc thái dân an của Aurelius. Commodus là chướng ngại vật ngăn cản đường lối chính tâm của Maximus đồng thời Commodus trở thành trò hề với mối tình vụng trộm với chị mình là Lucilla. Commodus sẵn sàng lôi xuống tất cả những ai cản bước mình đến với chiếc ghế quyền lực để thống trị, cai trị đế quốc chứ không phải để phục vụ đế quốc. Aurelius, Maximus, Lucilla đều bị Commodus lôi xuống khỏi vũ đài chính trị, chiến trường cũng như tình trường. Khi đã thực hiện được tham vọng làm vua, Commodus cai trị đế quốc bằng một đường lối không giống ai, bằng một chính sách dã man: “nắm đấm và bánh mỳ”. Commodus cười hả hê trên sự chết chóc của người khác bằng cách tái lập các hý trường, chơi trò giác đấu, bắt con dân, đồng loại phải tiêu diệt lẫn nhau. Ngoài sự cai trị không giống ai, Commodus cũng không biết đâu là tiêu chuẩn đạo đức, ranh giới của sự thiện ác, phải trái, thị phi. Nếu theo Đông phương, khi một ông vua không sống đúng với “chính danh”, tức vua cho ra vua thì khi đó ông không còn phải là vua nữa, cũng không phải là thiên tử, thay trời trị dân mà là một tên đê tiện, trời không dung đất không tha. Vua không xử thế theo Mệnh Trời lấy gì dân trọng? Do đó, ta có thể gọi Commodus là một tên tiểu nhân không hơn không kém, lại đội lốt hoàng đế, một ông vua, nhưng thực ra chẳng ai phong cho y nên cũng không đáng được gọi là vua.

Vì đòi hỏi của vua cha Aurelius cho một người kế vị là người đó phải khôn ngoan, dũng cảm, ý thức công bằng và biết chừng mực. Nhưng ông đã được đón nhận câu trả lời từ đứa con như một gáo nước lạnh đổ xuống tuổi già của Aurelius: “Con không có đức tính nào trong các tiêu chuẩn của cha nhưng con có tham vọng, tài xoay xở, và hơn hết là tận tụy với gia đình, với cha”. Vua Aurelius biết rất rõ lòng dạ con mình và thốt lên những lời chua cay, hết đường chạy chữa: “Lỗi lầm của con với tư cách là  con chính là  thất bại của cha trên cương vị người cha”  . Một lời trần tình thật lòng mà đến lúc này vua Aurelius phải nói trong tiếng nấc nghẹn ngào. Có thể vua Aurelius nuối tiếc cho sự huy hoàng, minh triết thế sự của một vị vua anh minh như mình rồi đây  sẽ bị nhấn chìm bởi lòng dạ nhẫn tâm của đứa con mà ông có thể cho rằng sinh ra Commodus là một sự sai lầm, và sự sai lầm lớn nhất là sự thất bại của một người cha trên cương vị người cha. Tiền đồ bị lung lay, gia đình tan rã, đế quốc bước vào cảnh đen tối là điều không ai muốn nhưng Aurelius có lẽ đã “linh cảm” được những điều đó có thể xảy ra. Và quả thực như chúng ta thấy, những điều đó đã xảy ra thật, chứ không còn chỉ là giả thiết.

Tóm lại, Commodus là một phản đề vì y là một tiểu nhân, tiểu nhân trong hành động giết cha, tiểu nhân trong cuộc chiến không cân sức với Maximus (đâm một dao vào Maximus trước khi thách đấu), tiểu nhân trong cách cai trị đế quốc, tiểu nhân trong mối tình vụng trộm với Lucilla, và sẵn sàng phá đổ tất cả những tiền đồ mà biết bao nhiêu người khác đã gầy dựng cho lý tưởng quốc thái dân an, người người được hạnh phúc.

Sự trở lại của Maximus, sự giúp đỡ của Gracchus và Lucilla có thể được coi là hợp đề của tuyệt phẩm “Gladiator”. Về lại Roma, Maximus không chọn những lời tung hô của dân chúng, cũng không chọn tiền bạc, danh vọng như Proximus muốn. Maximus cũng không nhắm ý hướng khôi phục lại danh dự, quyền lực cho mình nhưng là thực thiện ý nguyện của hoàng đế Aurelius là làm sao để quốc thái dân an, người người hạnh phúc. Phải chăng Maximus giết Commodus chỉ là giọt nước tràn ly, lòng tự trọng và lòng trung thành của Maximus bị tổn thương? Về cố quận, gặp lại cố nhân, Maximus không phải đi tìm vầng hào quang xưa nhưng là tìm một đáp số cho đế quốc, cho Roma mà bài toán đó đã được Aurelius đặt vấn đề và cách thức giải. Cách giải và tìm đáp số không khó vì giết Commodus là tìm thấy lời giải đáp. Thực hiện việc lập viện Nguyên Lão là lời giải đáp cuối cùng cho bài toán ấy.

Thế nhưng, lúc thực hiện, Maximus không tránh khỏi cái chết cũng không tránh khỏi bàn tay của Commodus, một kẻ hèn hạ nhưng muốn làm bá chủ người khác; một tiểu nhân đội lốt quân tử nhưng may thay dân chúng cũng chân nhận và hiểu được phần nào những việc làm đen tối của hắn. Nhà lãnh đạo nào cũng muốn lấy lòng dân chúng, vì dân yên thì chiếc ghế của mình mới vững. Hiểu được điều đó, Commodus cũng cố gắng làm đủ mọi cách để tỏ vẻ nhân từ, chăm lo cho con dân. Commodus đã lầm, khi ăn no, ngủ yên, dân chúng có thể vẫy tay chào đón nhưng lúc thế sự thăng trầm, cũng chính những bàn tay ấy quyết định số phận của một triều đại. Lúc vui vẻ, dân chúng có thể hả hê sung sướng, nhưng lúc hữu sự cũng chính họ chà đạp, truất phế những nhà lãnh đạo họ. Sức mạnh của dân chúng có thể như ngọn gió khơi dậy ngọn lửa từ đống tro tàn nhưng chính ngọn gió ấy cũng có thể thổi bay các thể chế chính trị.

Lịch sử đã chứng minh điều đó. Một Đổng Trác tài trí, sức mạnh hơn người nhưng cai trị dân chúng bằng thanh gươm và vó ngựa đã không thể kéo dài triều đại của mình. Một Lữ Bố sức mạnh như một siêu nhân “xuống đông đông tĩnh lên đoài đoài đoài tan” cũng không thể thực hiện tâm nguyện của mình là cùng sống hạnh phúc bên Điêu Thuyền, một tuyệt thế giai nhân để xây dựng một xã hội mà trong đó con người được sống hạnh phúc chỉ vì lòng đố kỵ và sự gian ác, đa nghi của Tào Tháo. Vì thế, một người tâm địa ác ôn và hèn hạ như Commodus làm sao hiểu được thế sự, hiểu được lòng dân, hiểu được Mệnh Trời? Một con sói dữ đội lốt chiên như Commodus làm sao che mắt được những người thành tâm thiện chí? Một vì “sao xẹt” làm sao sánh được ánh sáng quang minh của mặt trời, của vầng nguyệt? Một tâm địa gian manh như Commodus làm sao thực hiện được “chánh tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”?

Đành rằng cuộc đời có thể như một trò đùa, có cái này mà cũng không thể thiếu cái kia! Bên này là chân lý, bên kia lại là lầm lạc. Bên này là “chánh tâm”, bên kia lại là “tà tâm”. Pascal đã hiểu được sự đời trớ trêu đó nên ông đã mỉa mai một câu rằng: “Đáng buồn cười thay một thứ công lý như một con sông giới hạn. Bên này núi Pyrénée là chân lý, bên kia lại là lầm lạc”. Nhưng điều quan trọng Commodus có biết rằng mình đã lầm lạc ngay khi suy nghĩ và hành động hay không? Hẳn Commodus đã thiếu “cách vật, trí tri, thành ý, chánh tâm…”? Nếu Commodus là một minh quân thì lịch sử Roma đã đổi khác và nếu Maximus không phải là một người chính tâm thì Roma cũng như sự nghiệp của Aurelius đã bị nhấn chìm bởi đám bụi mờ của lịch sử.

Nhưng cũng đáng mừng vì đã có một người có thể làm thay đổi cục diễn “trận đấu lịch sử” không ai khác lại chính là Maximus. Có thể nhiều người cảm thấy tiếc rẻ cho sự nghiệp lẫy lừng của Maximus, một con người tài giỏi, tài đức vẹn toàn; một con người như vậy xuất hiện vào thời nào cũng quý. Maximus như viên ngọc quý đã được mài dũa. Ông mãi sáng không những trong lịch sử hào hùng của Roma mà còn trong cả lịch sử thế giới nữa. Nếu theo nhà triết học Hiện sinh J.P Sartre thì chết là hết, là chấm dứt dự phóng, hiện sinh dang dở, là ngõ cụt của kiếp nhân sinh, thì cái chết của Maximus lại mở ra một chân trời mới, bầu trời tự do không những cho những người nô lệ mà cho cả dân thành Roma, những người đáng ra là người nhưng không được làm người dưới thời Commodus như anh bạn gia đen trong đội giác đấu của Maximus chẳng hạn. Nếu cái chết của Maximus là vinh quang thì cái chết của Commodus lại là một sự hèn hạ, nhục nhã. Cái chết của Maximus là cái chết của một “vị cứu tinh” của Roma thì cái chết của Commodus là cái chết của kẻ tội đồ. Câu nói nổi tiếng “một người chết thay cho toàn dân” của Pilatus dành cho Chúa Giêsu ngày nào, bây giờ một lần nữa lại rất đúng đối với trường hợp của Maximus. Nhờ cái chết của Maximus, cái chết của một con người chính tâm, một chân trời mới đã được khai mở, lịch sử sang trang, Roma bước vào nền cộng hoà đứng đầu là viện Nguyên Lão, gồm những bậc hiền triết cao minh lãnh đạo đế quốc, một xã hội mà trước đây Platon từng mơ ước nay đã trở thành hiện thực. Sự trở lại của Maximus là một hợp đề tất yếu và hoàn hảo, giống như hạt lúa phải chết đi mới đơm bông kết trái, trở thành một mùa gặt bội thu làm ngây ngất lòng người.

Con người có thể đổi trắng thay đen, đen thay trắng, vì có thể khoác tấm áo vật chất cũng như tinh thần lên hình thể hay tâm hồn mình nhưng có một điều phải thừa nhận những người chân chính hay nói đúng hơn những nhà lịch sử chân chính thì không thể đổi trắng thay đen sự thật vốn có của lịch sử được. “Gladiator” là một tuyệt phẩm của điện ảnh nhưng những nhân vật trong tác phẩm này, cùng thời gian tính, dữ kiện, hành động của các nhân vật là có thật.

Tuy nhiên, sự thật lắm lúc cũng phủ phàng nhưng nhiều khi cũng làm cho người ta vẻ vang. Nếu Commodus nhấn chìm Roma trong tăm tối thì Aurelius, Maximus lại làm cho Roma vinh quang. Roma ngày xưa là bãi chiến trường, là mồ chôn những người lính xấu số tử trận nhưng cũng là ánh sáng soi vào bóng tối cho các dân man di mọi rợ nhìn thấy ánh sáng văn minh. Hai tiếng Roma vừa bi thương vừa kiêu hùng. Roma từng sinh ra những con người xấu xa như Commodus nhưng cũng sản sinh ra những vị hiền triết, những vị vua tài giỏi, minh quân như Aurelius cũng như những vị tướng trung thành, dũng cảm, tài giỏi như Maximus.

Roma ngày xưa là tử địa, là bãi chiến trường còn Roma bây giờ là thành phố hoà bình, tươi đẹp, đầy tinh thần bao dung và cánh cửa luôn rộng mở ra với thế giới. Roma ngày nay vừa cổ kính vừa hiện đại, giàu có và văn minh. Dầu rằng có những lúc hồi tâm suy nghĩ và nhìn những chứng tích lịch sử như Colesium, chúng ta cũng cảm thấy rùng mình, thấy tội các của những người đã gây biết bao chết chóc khổ đau cho nhân loại, những người dân vô tội, những tín hữu chỉ  vì lòng tin vào Đức Giêsu đã phải đổ máu, rơi đầu nơi hý trường ấy. Còn Roma bây giờ lại đầy lòng vị tha, thông cảm và tha thứ.

Từ quá khứ tới hiện tại, từ hiện tại tới tương lai có lẽ thời nào cũng có người nhắc đến Roma, một cột mốc, một chứng tích của lịch sử nhân loại, của thế giới vì Roma đã có những người  đổi mới cục diện của thế giới như Aurelius và Maximus. Nhờ những con người ấy góp phần làm cho chế độ nô lệ tan rã, mở ra thời kỳ tự do, thời kỳ cộng hoà và cho đến bây giờ đường lối chính trị này vẫn còn hiện diện ở nhiều quốc gia. Những nhân vật như Aurelius và Maximus vẫn sống mãi và tồn tại mãi trong tâm thức của những ai đã một lần nghe, đọc, xem tác phẩm “Gladiator” cũng như nghiền ngẫm lịch sử, những tượng đài đó luôn đứng vững mãi với thời gian và trong lòng người dương thế.

Nguyễn Văn Hoàn

Sunday 17 April 2011

LƯƠNG TÂM SAI LẦM: NGUYÊN NHÂN VÀ CÁCH KHẮC PHỤC

“Lương tâm”, theo Công đồng Vatican II, “là điểm sâu lắng và là cung thánh của con người; nơi đây con người hiện diện một mình với Thiên Chúa và tiếng nói của Người vang dội trong thâm tâm họ” (GS, 16).

Về phương diện luân lý Kitô giáo, lương tâm đóng một vai trò quan trọng vì “Lương tâm là một phán quyết của lý trí; nhờ đó, con người nhận biết một hành vi cụ thể mình định làm hay đã làm, là tốt hay xấu” (GLCG, 1778).

“Lương tâm”, còn được  hiểu, “là sự phán đoán của lý trí thực tiễn về giá trị luân lý của việc ta sẽ làm, căn cứ theo những nguyên tắc luân lý” .

Tuy nhiên, “khi phải đứng trước một chọn lựa, lương tâm có thể phán đoán đúng, hợp theo lý trí và luật Thiên Chúa, hoặc ngược lại, phán đoán sai” (GLCG, 1786). Mà nếu phán đoán sai là do lương tâm sai lầm. Vậy đâu là nguyên nhân của lương tâm sai lầm? Cách khắc phục như thế nào?

1. Nguyên Nhân

Con người là một hữu thể có lý trí, ý chí và tự do. Nhưng xét về phương diện xã hội, khi được sinh ra, được sống và lớn lên, con người bị bó buộc vào một môi trường sống nào đó; họ phải đối mặt với những pha tạp của kiếp nhân sinh: cơ chế, văn hoá, cách ứng xử, cách sống, ý thức hệ… ít nhiều tác động đến suy tư và cung cách sống của con người. Điều đó dần dà làm cho con người mất vẻ linh thánh thuở ban đầu  .

Về phương diện nhận thức, con người có thể được thụ giáo bởi một nền giáo dục quá khắt khe hoặc quá dễ dãi, có thể dẫn đến lệch lạc trong nhận thức và dẫn đến hình thành một lương tâm sai lầm.

Về phương diện luân lý, con người phải luôn luôn tuân theo phán đoán chắc chắn của lương tâm mình. Nếu chủ ý hành động nghịch với phán đoán ấy, con người tự kết án chính mình. Nhưng có thể lương tâm thiếu hiểu biết nên phán đoán sai lầm về các hành vi sẽ làm hoặc đã làm (GLCG, 1790). Thông thường cá nhân phải chịu trách nhiệm về sự thiếu hiểu biết ấy. Điều này xảy đến khi: “Con người không mấy lo lắng tìm kiếm chân lý và điều thiện, cũng như khi vì thói quen phạm tội mà lương tâm dần dần trở nên mù quáng” (GS, 16).

Hơn nữa, một lương tâm sai lầm, nghĩa là “những lệch lạc trong phán đoán luân lý có thể xuất phát từ thiếu hiểu biết về Đức Kitô và Tin Mừng; gương xấu của người khác; nô lệ các đam mê; nghĩ sai lạc về tự do lương tâm; khước từ quyền bính và giáo huấn của Hội thánh; thiếu hoán cải và bác ái’ (GLCG, 1792).

Tóm lại, những yếu tố vừa trình bày trên là nguyên nhân dẫn đến  lương tâm sai lầm. Nhưng khi nhận ra lương tâm sai lầm, chúng ta phải tìm cách khắc phục hay huấn luyện lương tâm. Vậy cách khắc phục ấy là gì?

2. Cách Khắc Phục

Lương tâm có thể đưa ra những quyết đoán sai lầm về một hành động và sai lầm đó nhiều khi gây nên những thiệt hại lớn lao cho chính bản thân và cho người khác. Đồng thời chính người có lương tâm sai lầm không thể tự mình thoát ra được nên cần phải huấn luyện lương tâm để người ấy sống đúng phẩm giá con người  .
Để có một lương tâm ngay thẳng, đúng với phẩm giá của nó, sách GLCG đưa ra những nguyên tắc để chúng ta khắc phục lương tâm sai lầm:

- Nhận biết các nguyên tắc luân lý.
- Áp dụng vào việc cân nhắc thực tiễn các lý do và lợi ích trong những hoàn cảnh cụ thể;
- Cuối cùng phán quyết về các hành vi cụ thể sắp làm hay đã làm. Nhờ phán quyết khôn ngoan của lương tâm, con người nhìn nhận, trong thực tiễn và cụ thể, chân lý điều thiện đã được chân lý nêu lên. Người khôn ngoan là người chọn theo phán quyết này (GLCG, 1780).

Một trong những điểm quan trọng trong việc huấn luyện lương tâm là: “Lương tâm phải được rèn luyện và phán đoán luân lý phải được soi sáng. Một lương tâm được rèn luyện tốt sẽ phán đoán ngay thẳng và chân thật. Lương tâm này sẽ đưa ra những phán quyết theo lý trí, phù hợp với điều kiện đích thực như Đấng sáng tạo đầy khôn ngoan muốn. Việc giáo dục lương tâm rất cần thiết cho những người chịu ảnh hưởng tiêu cực và bị tội lỗi cám dỗ làm theo ý riêng và bỏ những giáo huấn chính thức” (GLCG, 1783).

Vậy phải giáo dục lương tâm thế nào? Sách GLCG, số 1785 trích từ DH, 14 cho chúng ta biết: “Lời Chúa là ánh sáng chỉ đường để rèn luyện lương tâm. Chúng ta phải lãnh hội Lời Chúa trong đức tin, trong kinh nguyện và đem ra thực hiện; phải kiểm điểm lương tâm dưới ánh sáng Thập Giá Đức Kitô; nhờ ơn Chúa Thánh Thần trợ giúp, có các chứng từ và lời khuyên nhủ của anh em giúp đỡ, được giáo huấn chính thức của Hội Thánh hướng dẫn”. Điều này cũng được Công đồng Vatican II và Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolo II dạy: “Trong việc huấn luyện lương tâm, các kitô hữu phải luôn chú trọng đến giáo lý thánh thiện và vững chắc của Giáo hội. Thật vậy, theo ý định của Chúa Kitô, Giáo hội Công giáo là thầy dạy chân lý; nhiệm vụ của Giáo hội Công giáo là bày tỏ và giảng dạy một cách chính quy chân lý là Đức Kitô, đồng thời công bố và xác nhận, nhân danh uy quyền của mình, những nguyên tắc thuộc cấp trật luân lý phát xuất từ nơi chính bản chất của con người” (DH, 14; Splendor Veritatis, 64).

Lương tâm càng ngay thẳng, các cá nhân và các tập thể càng dễ tránh được những quyết định mù quáng và sống theo các chuẩn mực khách quan của chân lý (x. GS, 16). Vì thế, giáo dục lương tâm là nhiệm vụ phải theo đuổi suốt đời. Bởi giáo dục lương tâm bảo đảm tự do và tạo bình an trong tâm hồn con người (x. GLCG, 1784).


Huấn luyện lương tâm là việc làm cấp bách và có tính lâu dài, đặc biệt đối với lương tâm sai lầm, nhưng chúng ta phải nhận ra được đâu là nguyên nhân để tìm cách khắc phục.

Những phương thế và nguyên tắc chỉ dẫn của Giáo hội là kim chỉ nam cho chúng ta giáo dục lương tâm mình. Đồng thời cầu xin Chúa trợ giúp bằng ơn thánh của Ngài và Chúa Thánh Thần hướng dẫn. Đặc biệt nhờ Máu Đức Kitô và sự sống lại của Người mới có thể làm cho lương tâm nên trong sạch, và Máu của Người tẩy sạch lương tâm chúng ta khỏi những việc đưa tới sự chết, để chúng ta xứng đáng phụng thờ Thiên Chúa hằng sống (x. Dt 9,14).

Nhờ đó lương tâm tốt lành và trong sáng của người tín hữu còn được đức tin chân chính soi sáng, vì đức ái xuất phát đồng thời “từ một tâm hồn trong sạch, một lương tâm ngay thẳng và một đức tin chân chính (x. 1Tm1, 5).

NVH