Saturday 16 April 2011

TRIẾT LÝ SỐNG CỦA NGƯỜI VIỆT TRONG BÀI ĐỒNG DAO THẰNG BỜM


Nhạc sĩ Hoàng Hiệp đã viết trong bài “Trở về dòng sông tuổi thơ” như sau: “Quê tôi, ai cũng có một dòng sông bên nhà, con sông quê gắn bó với tuổi thơ đời tôi. Bao năm xa quê ấy, trong mơ tôi vẫn thấy, hôm nay tôi trở về lòng chợt vui thấy sông không già…”. Qủa thật, nơi dòng sông quê hương ấy, chúng ta được sinh ra, được lớn lên và được hòa vào dòng chảy của cuộc đời. Dòng sông ấy đón nhận nước từ thượng nguồn để tưới mát và nuôi sống muôn vật khắp nơi mà dòng sông đi qua, và cuối cùng đổ vào biển cả để tạo thành từng đợt sóng vỗ mãi ngàn năm.

Nền văn hoá Việt Nam cũng được ví tựa dòng sông chảy qua bao thế hệ, để mọi người dân Việt đều kín múc nơi dòng sông ấy những nét đẹp văn hoá, những suy tư, cảm nghĩ, lối sống và cả những kinh nghiệm thực tiễn trong đời sống của cha ông họ. Dòng sông này như chiếc nôi đưa con cháu vào đời.

Chính những suy tư và cảm xúc, những lối sống và kinh nghiệm này đã chuyển tải trong cuộc sống và tạo ra những cơ hội để người Việt thể hiện triết lý sống của mình. Triết lý ấy là những nguyên lý về cách sống và lối cảm nghiệm, về cái nhìn và cách suy tư… của người Việt. Vì thế, Linh mục Nguyễn Trọng Viễn đã nói một cách rất chí lý rằng: “Triết lý gắn liền với cuộc sống, triết lý là những suy tư phát xuất từ cuộc sống và nhằm hướng dẫn cuộc sống”. Triết lý sống này đã giúp người Việt đặt những vấn nạn, những suy tư trăn trở của mình cho chính mình để cố tìm giải đáp cho những khúc mắc của kiếp nhân sinh. Đây chính là những suy tư hình thành từ cuộc sống, không những của một cá nhân nào đó mà là của một tập thể, hay nói đúng hơn là của toàn thể dân tộc Việt Nam.

Triết lý sống ấy được người Việt chuyển tải không những trong sử sách, văn chương mà còn thể hiện trong những câu tục ngữ, ca dao, vè,… mà bài đồng dao Thằng Bờm là một ví dụ.

Là một người yêu thích văn hoá và triết lý Việt, người viết thấy có lý do để tìm hiểu và nghiên cứu đề tài: “Triết lý sống của người Việt trong bài đồng dao Thằng Bờm”.
Tuy nhiên, do kiến thức cá nhân còn hạn hẹp nên sẽ khó tránh khỏi những thiếu sót, những hạn chế khi nghiên cứu và trình bày. Người viết chỉ có một ước mong nho nhỏ là sự nghiên cứu này sẽ khơi lên được giá trị của những triết lý sống trong kho tàng truyền thống cao đẹp của cha ông, để giúp định hướng những giá trị đạo đức cho cuộc sống con cháu hôm nay của người Việt Nam.

Trước khi đi vào nghiên cứu đề tài, xin được tìm hiểu qua khái niệm danh từ Triết học và Triết lý .

I. KHÁI NIỆM DANH TỪ TRIẾT HỌC VÀ TRIẾT LÝ

Khi bàn về vấn đề triết học, triết lý, người ta thường có nhiều ý kiến khác nhau tuỳ theo môi trường, không gian và lối tư duy khác nhau mà người ta đã có hoặc đã sống.
  
 1. Theo quan niệm Tây Phương
Hy lạp dùng từ Philosophia để định nghĩa triết học. Chữ Philosophia này bao gồm hai vế: Philo, Philein = yêu mến và Sophia = khôn ngoan. Theo nghĩa chiết tự thì Philosophia là yêu mến sự khôn ngoan, là bạn của khôn ngoan, là ham mộ học biết, tức tìm đến tận cùng của sự hiểu biết.
Theo truyền thuyết, danh từ triết học này được Pythagore dùng đầu tiên và có nghĩa là “người yêu mến sự khôn ngoan”.
   
2. Theo quan niệm Đông Phương
Chữ Triết của Trung Hoa gồm có chữ Thủ (    ) là Tay, chữ Cân (    ) là cái rìu và chữ Khẩu (     ) là miệng: Tay cầm rìu tức là phân tách một vật gì…
Như vậy, chữ “triết” theo nghĩa của từ ngữ, là dùng lời nói để chẻ sự vật ra, để xem xét tận bên trong của sự vật, tức là dùng lời để diễn tả cho rõ ràng, phân minh về sự vật như “chẻ sợi tóc ra làm tư”.

Tuy người Trung Hoa mới dùng chữ Triết để dịch từ ngữ Philosophia của Tây Phương, nói đúng hơn là của Hy lạp, nhưng trong lịch sử tư tưởng Trung Hoa, ta cũng thấy một vài nơi diễn tả tư tưởng về sự khôn ngoan.

Trong sách Hồng Phạm Cửu Trù, ở phần Thượng Thư đã có câu: “Minh tắc triết, nghĩa là sáng thì khôn”. Trong Kinh Thi: “Tri chi viết minh triết: biết là minh triết” và Lão Tử cũng nói rằng: “Trí nhân giả trí, tự trí giả minh: kẻ biết người là người khôn; kẻ tự biết mình là người sáng suốt ”  .
Như thế, ta thấy tư tưởng Đông Phương vẫn coi trọng sự khôn ngoan (Triết) như là một cách biết rõ ràng, sáng sủa, phân minh nhất là sự hiểu biết về con người càng được coi trọng.

Mặc dù có những điều dị biệt trong quan niệm về triết lý và triết học nhưng có một điểm chung nhất đó là triết lý và triết học đều lấy con người và đời người làm đối tượng để suy tư. Chính trong thân phận người, mà con người không ngừng suy tư về cuộc đời, về đời người, về sự hiện hữu của mình nên “trong triết lý, ai ai cũng cảm thấy như mình có đủ khả năng suy tư   hoặc đã là người thì không ai bỏ qua triết lý được, vì thế mới thấy triết lý xuất hiện khắp nơi và tồn tại mãi mãi”  .

Trên đây là khái niệm chung về triết học và triết lý, sau đây chúng ta sẽ tìm hiểu các triết gia và các học giả nói như thế nào về triết học và triết lý.

Vì ai cũng có khả năng suy tư nên ai cũng có thể định nghĩa triết học, triết lý theo sự hiểu biết của mình. Do đó, người ta đã ghi nhận có rất nhiều định nghĩa về chúng.

Theo từ điển Tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học Việt Nam: “Triết học là môn nghiên cứu và tìm hiểu nguyên lý vạn vật”. Theo Aristote, triết học là môn học nghiên cứu hữu thể xét như là hữu thể. Nghiên cứu bằng tìm hiểu các nguyên nhân: nguyên nhân chất thể, mô thể, tác thành, mục đích. Đối với Descartes và Kant, triết học là môn học nghiên cứu về nhận thức của con người và về giá trị của nó. Theo Khổng Tử, triết học là môn học nghiên cứu về nguyên lý của vũ trụ và của nhân sinh. Tuy nhiên, theo quan niệm hiện đại, triết học là môn học về tinh thần con người và những gì liên quan tới tinh thần đó. Hay là học về tinh thần con người với tất cả chiều hướng hiện sinh của nó.

Theo Lý Minh Tuấn, triết lý là sự suy tư, phân tích và tổng hợp mang tính toàn triệt, rốt ráo về con người, về thân phận con người, về sự vật, nhất là về ý nghĩa của đời người.

Ted Hoderich thì cho rằng, triết học là tư duy về điều tư duy hay chi tiết hơn mà không gây mâu thuẫn, triết học là tư duy phê phán dựa vào lý trí, thuộc loại ít nhiều mang tính hệ thống về bản chất tổng quát của thế giới (siêu hình học hay lý thuyết về sự hiện hữu), về sự xác minh niềm tin (tri thức luận hay lý thuyết về giá trị niềm tin)  .

Nhưng triết lý, đối với K. Jaspers, là một cuộc hành trình và hành trình là số kiếp con người trong trần gian. Từ thế hệ này tới thế hệ khác, mỗi người, mỗi cộng đồng, mỗi dân tộc và toàn thể nhân loại đều đã tiến bước trên cuộc hành trình đi tìm chân lý. Triết lý cũng như bao giá trị khác nên phải biến đổi theo hoàn cảnh xã hội, theo phương tiện sinh hoạt của con người. Triết lý còn được coi là cái lý sâu xa, cái lẽ huyền diệu của một học thuyết hay của một sinh hoạt, một hiện tượng, một cử chỉ  .

Nếu chỉ nói triết lý bằng lý thuyết thôi thì e rằng chưa đủ, vì triết lý phải là triết lý bằng hiện thực. Triết lý là cái gì chỉ ngang qua kinh nghiệm mới hiểu được. Nhờ kinh nghiệm, người ta mới nhận thấy rằng: triết lý vừa là thể hiện tư tưởng linh động vừa là suy tư về tư tưởng linh động ấy hay triết lý vừa là hành động vừa là thái độ giải thích cho hành động và chỉ nhờ kinh nghiệm bản thân, mỗi người mới nhận thức được đâu là bản chất của triết lý ở đời. Chúng ta có thể nói rằng, triết lý là con đường dẫn con người về trọng tâm, nơi đây, họ mới nhận thức được chính họ trong khi dấn thân vào cuộc đời.

Cuối cùng từ sự suy tư về con người, về ý nghĩa cuộc đời, về kiếp sống nhân sinh mà triết lý là chính thân phận của con người, vừa cao cả, vừa bi đát; vừa thấy những tia sáng lóe lên, vừa dò dẫm bước đi trong bóng tối, vừa là tiếng kêu vô vọng, vừa là sự thúc bách “sống còn” tự thâm sâu.

Trước khi đi vào nội dung chính, chúng ta tìm hiểu xem đâu là những yếu tố hình thành nên triết lý sống của người Việt.

II.  NHỮNG YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG VÀ HÌNH THÀNH NÊN TRIẾT  LÝ SỐNG CỦA NGƯỜI VIỆT 
   
1. Vị trí địa lý và con người
       
* Vị trí địa lý
Từ xưa, Việt Nam là một nước thuộc vùng Đông Nam Á, trước đây vùng này trải dài từ sông Dương Tử Trung Quốc đến các quần đảo Mã Lai, Indonesia, Philippines… Trong vùng Đông Nam Á, nước Bách Việt trải dài từ sông Dương Tử đến đồng bằng Sông Hồng và Sông Mã.
Hiện giờ, Việt Nam nằm giữa vĩ tuyến 8030 và vĩ tuyến 230­40, giữa kinh tuyến 10; Đông và Nam giáp Biển Đông, Tây giáp Lào và Campuchia, Bắc giáp Trung Quốc. Như vậy, nước Việt Nam nằm giữa lưu thông đường biển nối liền hai nền văn hóa lâu đời nhất của Châu Á là Trung Hoa và Ấn Độ.

Lãnh thổ nước Việt Nam hiện nay của chúng ta, không phải từ trước đến nay vẫn thế, nhưng đã thay đổi, vì qúa trình bảo tồn và phát triển không chỉ diễn ra một sớm một chiều mà là công sức của biết bao thế hệ Cha Ông trong nhiều thế kỷ để lại. Từ việc lập nước, dựng nước của các Vua Hùng, từ thời Hồng Bàng đến Triều Nguyễn và cho đến nay, người Việt đã phải đối mặt với nhiều đợt thôn tính của người Phương Bắc, Phương Tây. Do vậy tên Nước cũng được thay đổi nhiều lần và những lần đó đều gắn liền với những chiến thắng của các vị vua, của quân và dân Việt từ Văn Lang, Âu Lạc cho đến nay là Việt Nam.
      
 *  Con người
Theo truyền thuyết, Lạc Long Quân lấy Âu Cơ đẻ ra bọc trứng, nở ra trăm con. Như thế, dân tộc Việt Nam thuộc dòng tộc Con Rồng Cháu Tiên: “Tục truyền vua Đế Minh là cháu ba đời của vua Thần Nông, đi tuần thú Phương Nam đến núi Ngũ Lĩnh gặp nàng Vụ Tiên, cùng nhau kết hôn đẻ ra Lộc Tục. Đế Minh phong Lộc Tục là vua Phương Nam, xưng là Kinh Dương Vương, quốc hiệu là Xích Quỷ. Kinh Dương Vương lấy con gái Động Đình Quân là Long Nữ, đẻ ra Sùng Lãm sau nối ngôi là Lạc Long Quân.

Lạc Long Quân lấy Âu Cơ đẻ ra cái bọc có trăm trứng và nở ra trăm con. Lạc Long Quân về sau bảo Âu Cơ: “Ta là dòng dõi Long Quân, còn hậu là dòng dõi Thần Tiên, ăn ở lâu với nhau không được. Nay được trăm con, Ta đem năm mươi con trai về thủy phủ, năm mươi con trai theo Nàng lên núi”. Lạc Long Quân phong cho con trưởng làm vua nước Văn Lang, xưng là Hùng Vương, vị vua đầu tiên của họ Hồng Bàng. Sau đó còn mười bảy đời vua nữa nối tiếp nhau cũng lấy hiệu là Hùng Vương.

Tuy nhiên, xét về nguồn gốc của người Việt Nam và theo các nhà nhân chủng học, người Việt Nam thuộc đại chủng Nam Á (Austroasiatique). Xét về mặt chủng tộc, người Việt Nam gần gũi hơn với các tộc Chàm, Khmer và các nước Đông Nam Á, kể cả Đông Nam Á Hải Đảo. Sở dĩ như vậy vì khoảng 10.000 năm TCN, Việt Nam và các dân tộc này đều thuộc đại chủng Indonésien (Cổ Mã Lai hay Đông Nam Á tiền sử). Dần dần, khoảng 5.000 năm TCN, đại chủng Indonésien tách thành Indonésien nói ngôn ngữ Nam Đảo như Chàm, Raglai, Êđê và tách nhóm thứ hai là chủng Nam Á (Austroasiatique) còn gọi là Bách Việt  .

Chính sự liên lạc này đã tạo nên mối thống nhất cao độ của vùng văn hoá Đông Nam Á. Hơn nữa, do nằm ở vị trí đặc biệt, Việt Nam là nơi hội tụ ở mức đầy đủ nhất mọi đặc trưng của văn hoá khu vực.
Cũng do vị trí địa lý mà Việt Nam là xứ nóng, cộng với mưa nhiều và từ đó hình thành vùng sông nước, tạo nên nét độc đáo của nền văn hoá nông nghiệp lúa nước.
   
2. Đời sống nông nghiệp
Việt Nam là một trong những trung tâm nông nghiệp trồng lúa nước lớn nhất và vào thời cổ xưa nhất của nhân loại. Điều này đã được nhà Đông Phương học người Nga D.V. Deopik xác nhận: “Ở Bắc Đông Á không có những nôi nông nghiệp lớn… Những nền văn hoá trồng lúa vùng sông Dương Tử thời kỳ Long Sơn và muộn hơn thực chất đều là ngoại vi của nôi trồng lúa Đông Dương”.

Đến thời kỳ văn hoá Hoà Bình - Bắc Sơn, Việt Nam trở thành quê hương của nền văn hoá nông nghiệp nổi tiếng vùng Đông Nam Á. Vào thời kỳ này, con người bước vào cuộc sống sản xuất và người Việt đã biết dùng kỹ thuật canh tác “dẫn thuỷ nhập điền”. Việc trồng lúa nước đòi hỏi phải định canh định cư nên người Việt đã ngàn đời gắn bó với đất, nước, sông; với thời tiết mùa màng. Cũng suốt mấy ngàn năm, đất đai và cách thức sản xuất (con trâu, cái cày, gặt hái, gieo vãi) không thay đổi mấy.

Người Việt Nam chủ yếu sống bằng nghề trồng lúa nước, nên sống thành cộng đồng, đêm ngày gắn bó với ruộâng đồng, thiên nhiên, mưa nắng, đất trời, do đó, có mối liên hệ chặt chẽ giữa Thiên – Địa – Nhân; nhất là gắn bó với cái thiêng liêng gần gũi của sông nước. Từ tâm thức này, người Việt giàu tình cảm, lạc quan, phóng khoáng, chan hoà, yêu người, yêu đời, yêu thiên nhiên; yêu quý tình nghĩa nam nữ, vợ chồng; tinh vi, khéo léo, thích nghi với môi trường, văn hoá.

Từ chỗ gắn bó với cây lúa, đồng ruộng, thiên nhiên, làng mạc, người Việt phải luôn chống chọi với bão táp mưa sa, với giặc ngoại xâm nên bản chất của người Việt tuy hiền hoà nhưng cũng bất khuất. Cái chất nông dân của người Việt vừa giàu tình cảm, vừa chân chất thực tế, dân dã và dễ thích ứng. Bên ngoài, người Việt như chẳng có gì độc đáo nhưng lại ẩn chứa bên trong một sức mạnh tiềm tàng. Cuộc sống của người Việt lúc thì bình thường lặng lẽ, hoà mình, ẩn khuất nhưng đến lúc hữu sự lại ào ạt bất khuất như Thánh Gióng hay như cơn nước lũ tràn về. Xong việc đâu đó, họ lại hiền hoà, cần mẫn lam lũ bên ruộng lúa nương dâu. Họ dễ cười, hồn nhiên, hóm hỉnh mà vẫn giữ được cái khí phách của một dân tộc.

Người Việt luôn gắn bó với đất nước nên gọi quê hương, tổ quốc là “Đất Nước” như để nói lên tình cảm gắn bó tha thiết với mảnh đất mình đang sống. Thật vậy, tâm hồn và sức mạnh của người Việt cũng giống như Đất và Nước. Đất cho cây lúa mọc lên, trổ sinh bông hạt, nuôi sống con người. Nước mềm mại, nước chảy lặng lẽ âm thầm, thấm nhập, tắm tưới cho đất, cho cây lúa, luôn thích ứng và biến hoá, nhưng khi cần, nước cũng có thể trở thành cơn thác lũ cuốn trôi tất cả.

Từ việc trồng trọt, sống bằng nghề nông nghiệp, người Việt đã xây dựng cho mình một nền văn hoá đặc sắc, giàu tình cảm, mạnh về trực giác, rất tinh tế khôn ngoan, khéo léo, ít lý luận, nặng tình nghĩa gia đình, làng xóm, quê hương.

Trong những lúc rãnh rỗi, họ quên đi công việc tất bật của đồng áng, tìm giây phút nghỉ ngơi bồi dưỡng, từ đó những lễ hội cũng ra đời. Những lễ hội nông nghiệp phồn thực và thần bí của cả cộng đồng được quy tụ quanh vị thủ lãnh mà trống đồng là biểu lộ những thành tựu và cảm thức đời sống của cả cộng đồng. Những lễ hội đó nuôi dưỡng đời sống văn hoá của cả cộng đồng, làm cho cộâng đồng được thống nhất và vững bền. 

3. Bản sắc văn hoá của người Việt
Mỗi dân tộc, mỗi quốc gia, do sự nhận thức và lối sống khác nhau nên cũng có những nét văn hoá khác nhau. Người Việt Nam sống chủ yếu dựa vào nông nghiệp nên có một lối nhìn, cách sống, cách tư duy… không giống hay ít ra khác với những dân tộc khác. Do đó trong phần này, người viết xin được nêu lên ba nét đặc sắc: Văn hoá nhận thức, văn hoá tổ chức đời sống và cuối cùng là văn hoá ứng xử với môi trường.     

3.1. Văn hoá nhận thức
Ở Việt Nam, nông nghiệp là nghề chủ đạo nên chắc chắn người Việt có những trực giác và tư duy phát sinh từ việc tiếp cận, thích nghi và chinh phục thiên nhiên. Trong tâm thức người Việt, lúc nào cũng có hai thực tại đối xứng: Trời - đất, lửa - nước, núi - sông, đất - nước, ngày- đêm, nam- nữ, vợ- chồng, mẹ - cha… đó là những “thực tại lưỡng nguyên” của đời sống nông nghiệp. Do đó, người Việt cũng cảm nhận và tư duy theo thể “lưỡng phân lưỡng hợp” hay triết lý Âm Dương. Âm Dương là hai mặt của một thực tại liên kết với nhau theo kiểu biện chứng: không có gì hoàn toàn âm hoặc không có gì hoàn toàn dương, bởi trong âm có dương và trong dương có âm. Âm và dương luôn gắn bó mật thiết với nhau: Âm cực dương sinh, dương cực âm sinh.

Vì thế, ở người Việt Nam, “tư duy lưỡng phân lưỡng hợp” biểu lộ rất đậm nét qua khuynh hướng cặp đôi ở khắp nơi: từ tư duy đến cách sống, từ các dấu vết cổ xưa đến những thói quen hiện đại  .

Trên thế giới, chúng ta thường thấy vật tổ của các dân tộc là một loài động vật cụ thể (gấu, bò, gà… ) nhưng vật tổ của người Việt Nam lại là một cặp đôi trừu tượng Tiên - Rồng. Từ đó mọi thứ cũng được người Việt Nam sắp xếp đi đôi từng cặp theo nguyên tắc âm dương hài hoà: Ông Đồng Bà Cốt, Ông Đùng Bà Đằng, ngói âm ngói dương…

Vì lối tư duy âm dương nên khi người Việt nói đến đất, núi liền nghĩ ngay đến nước, nói đến cha liền nghĩ ngay đến mẹ:
“Công Cha như núi Thái Sơn
Nghĩa Mẹ như nước trong nguồn chảy ra”.

Tổ quốc đối với người Việt Nam cũng là một khối âm dương : Đất Nước.
Biểu tượng của âm dương là vuông tròn. Có vuông có tròn tức là có âm dương. Nói đến vuông tròn là nói đến một sự hoàn thiện, viên mãn như:
“Mẹ tròn con vuông”.
“Ba vuông sánh với bảy tròn
Đời cha vinh hiển đời con sang giàu”.
Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du cũng viết:
“Trăm năm, tính cuộc vuông tròn,
Phải dò cho đến ngọn nguồn, lạch sông” .

Người Việt nhận thức được quy luật “trong âm có dương, trong dương có âm” như: Trong rủi có may, trong hoạ có phúc… và quy luật âm dương chuyển hoá: Sướng lắm khổ nhiều; yêu nhau lắm cắn nhau đau…
Nhờ lối tư duy âm dương mà người Việt Nam có được triết lý sống quân bình: Trong cuộc sống, cố gắng không làm mất lòng ai; trong việc ăn ở, làm sao giữ được sự hài hoà âm dương trong cơ thể và hài hoà với môi trường thiên nhiên, đất trời.

Triết lý quân bình âm dương đã làm cho người Việt có được một khả năng thích nghi tối đa với mọi hoàn cảnh, dù khó khăn đến đâu cũng không chán nản, ngã lòng.
Vì vậy, có thể nói được rằng, người Việt Nam sống bằng tương lai, vì đã tỏ rõ tinh thần lạc quan: thời trẻ khổ thì tin rằng về già sẽ sướng, đời cha khổ thì tin rằng đời con sẽ sướng và câu nói ở cửa miệng lúc gặp khó khăn: “hy sinh đời bố củng cố đời con”, hay “không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời” hoặc “hậu sinh khả uý”. Bài ca dao Mười Quả Trứng là một ví dụ điển hình cho tinh thần lạc quan trên.

Tóm lại, nhờ lối tư duy trực giác và triết lý sống lưỡng phân, người Việt đã dung hoà được những chiều hướng đối lập trong cuộc sống làm tiền đề cho mọi phát triển, trong đó có việc tổ chức đời sống.
    
 3.2. Văn hoá tổ chức đời sống
Con người không phải là những đơn vị sống riêng lẻ nhưng là những nhân vị sống có tương quan với nhau. Do đó, người Việt đã sớm biết tổ chức cuộc sống cộng đồng để tương trợ, tạo thành một sức mạnh đoàn kết trong cộng đồng và đoàn kết trong việc chống ngoại xâm. Việc tổ chức đời sống được chia thành ba cấp độ chủ yếu: Gia đình, làng xã và quốc gia.

* Gia đình
Mọi thành viên trong huyết tộc được quy tụ thành một gia đình, dòng họ. Trong gia đình, dòng họ ấy, tổ tiên, ông bà, cha mẹ, con cái, cháu chắt cùng chia sẻ đời sống tinh thần và vật chất. Gia đình nào có bốn thế hệ (tứ đại đồng đường) cùng chung sống với nhau dưới một mái nhà là một điều tự hào, hãnh diện. Người Việt còn có kiểu phân chia cấp bậc tôn ti rất chi li; phân biệt rạch ròi tới chín thế hệ gọi là cửu tộc. Trong cửu tộc, mỗi thành viên có một vị trí đặïc biệt: ông bà, cha mẹ là những bậc đáng kính, bậc sinh thành dưỡng dục, con cháu phải biết vâng lời, hiếu thảo, ngoan ngoãn, để ông bà, cha mẹ vui lòng. Có lẽ đây là nền tảng cho đạo hiếu kính của người Việt. Liên kết giữa các gia đình hình thành nên tổ chức làng xã.  

 * Làng xã
Làng xã là nét độc đáo của văn hoá nông nghiệp, bởi nó tạo nên tính cộng đồng làng xã. Tính cộng đồng này dựa trên sự liên kết các thành viên trong làng với nhau; mỗi người đều hướng tới những người khác: mình vì mọi người; hay chăm lo cho nhau: tối lửa tắt đèn có nhau.

Tổ chức làng xã, tuy là sản phẩm của tính cộng đồng nhưng nó vẫn mang tính tự trị. Mỗi làng là một “tiểu quốc” có thể biệt lập đến mức có phong tục, lễ hội, đời sống và cả giọng nói khác nhau. Sự biệt lập đó tạo nên truyền thống “phép vua thua lệ làng”.

Biểu tượng truyền thống của tính cộng đồng làng xã là Sân đình - Bến nước – Cây đa. Hầu như bất cứ một làng quê nào ở Việt Nam cũng có một ngôi đình. Đình là ngôi nhà chung của làng quê thời xưa, dùng làm nơi thờ Thành Hoàng và họp việc làng. Vào những ngày lễ, tết, dân làng đến Đình thắp hương tế lễ nhộn nhịp, cầu mong Thành Hoàng và trời đất giúp cho mưa thuận gió hoà, cày cấy làm ăn thuận tiện và có nhiều phúc lành. Đình cũng là nơi tổ chức những sinh hoạt cộng đồng như : Tế tự, xử kiện, hát chèo, đấu vật, chọi gà, múa hát giao duyên; hoặc là nơi hành cung khi Vua đi tuần du.

Xung quanh Đình thường có những cây đa cổ thụ hoặc có giếng nước như tài sản chung mà mọi người đều có quyền hưởng dùng và có bổn phận phải gìn giữ.
Vì thế, người Việt Nam gắn bó với đình đến nỗi:
“Qua đình ngả nón trông đình
Đình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu”.
Đình là trung tâm của mọi sinh hoạt tín ngưỡng và lễ hội, là mối dây liên kết tâm hồn của cả cộng đồng và giao lưu với thế giới bên ngoài.
     
* Tổ chức đời sống Quốc gia
Ý thức cộng đồng của người Việt đã làm cho mọi người xích lại gần nhau. Làng này liên kết với làng khác tạo thành một cộng đồng lớn gọi là quốc gia. Đứng đầu quốc gia là Vua. Vua có quyền và nghĩa vụ chăm lo cho con dân và tổ chức đất nước sao cho trên thuận dưới hoà. Khi có xung đột nội quốc hay giặc giã ngoại bang, Vua phải kêu gọi dân hợp lực, đoàn kết đánh đuổi quân thù sao cho trong ấm ngoài êm, từ đó hình thành tinh thần yêu nước và khơi dậy trong lòng người Việt một sức mạnh quật cường, anh dũng.

Trong quốc gia, ngoài Vua, thứ dân còn lại được chia thành bốn cấp bậc: Sĩ, nông, công, thương. Với truyền thống “trọng văn” nên trong xã hội, kẻ sĩ (văn sĩ) được coi trọng nhất. Tiếp đến là những người làm nghề nông nghiệp, là những người trực tiếp sản xuất ra lúa gạo nuôi sống cộng đồng nên có câu truyền miệng rất vui như sau: “Nhất sĩ nhì nông, hết gạo chạy rông, nhất nông nhì sĩ”!
“Công” là những người làm thợ: Thợ dệt, thợ hồ, thợ rèn…
Còn “Thương” là những người làm nghề buôn bán. Song việc buôn bán ngày xưa kém cỏi nên thường dễ bị coi rẻ nhất: “Trọng nông ức thương” hay “Dĩ nông vi bản, dĩ thương vi mạt”, nghĩa là lấy “nông” làm gốc, lấy “thương” làm ngọn. Điều đó cho thấy dân ta quý trọng hạt gạo như hạt vàng vậy.

Do có ý thức cao về đời sống tập thể nên người Việt Nam tôn trọng cộng đồng, tập thể, cư xử bình đẳng và dân chủ. Lối sống trọng tình dẫn đến trọng đức, trọng văn, trọng phụ nữ mà luật Hồng Đức là một minh chứng  . Điều này hiếm thấy ở Trung Hoa là dân tộc trọng nam - phụ hệ: “Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô”.

Chúng ta không thể chỉ nói đến hình thức tổ chức cộng đồng mà bỏ qua chuyện ăn, mặc, nhà ở của người Việt. Những hình thức này cũng làm cho văn hoá Việt Nam có một cái gì đó đặc sắc, riêng biệt so với các dân tộc khác. Đây là những vấn đề mà chúng ta sẽ tìm hiểu trong phần kế tiếp.
     
3.3 Văn hoá ứng xử với môi trường
Sống trong những môi trường văn hoá khác nhau, do đó, mỗi dân tộc, mỗi cộng đồng đều có quan niệm khác nhau về cuộc sống và thể hiện ý nghĩ, hành động, cách sống ấy cũng khác nhau. Đối vối người Việt Nam, chuyện ăn, ở, mặc đã trở thành những nét đẹp văn hoá của người Việt.   

* Văn hoá Ẩm thực
Để sống được, người ta phải ăn nên ăn uống luôn là việc quan trọng. Ở Việt Nam, nông nghiệp là nghề chính nên thành phần chất liệu bữa ăn của người Việt chủ yếu là cơm, thực vật, rau quả, thịt cá… Tính tổng hợp được người Việt coi trọng trong cách chế biến thức ăn, đủ ngũ chất: bột- nước- khoáng- đạm– béo; đủ ngũ vị: chua – cay - ngọt – mặn - đắng.

Tính tổng hợp này đã làm cho văn hoá ẩm thực của người Việt trở thành một nghệ thuật trong cách bài trí và ăn uống. Mâm cơm của người Việt có nhiều món: cơm, canh, rau, dưa, cá thịt… tuy vậy, bữa ăn của người Việt luôn thể hiện tính cộng đồng và mực thước. Họ ăn chung và thích chuyện trò trong bữa ăn. Nghệ thuật ẩm thực còn phản ảnh trình độ văn hoá của người Việt: “Ăn xem nồi, ngồi xem hướng”; không ăn quá no, quá chậm, quá nhiều, quá ít, những điều này chứùng tỏ người Việt rất quí chuộng sự quân bình.

Trong bữa cơm, nồi cơm và chén nước mắm được coi là trung tâm. Người ta có thể không ăn các món khác nhưng với cơm và nước mắm thì ai cũng ăn, cũng chấm. Điều này thể hiện tính cộng đồng rất cao. Hơn nữa, tính linh hoạt cũng thể hiện rất rõ trong bữa cơm, người ta có thể “thêm bát thêm đũa chứ không thêm nồi thêm niêu”. Người Việt không ăn bằng xiên, bằng nĩa nhưng  ăn bằng đũa. Cầm đôi đũa, người  ta có thể gắp, và, dằm, trộn… và có thể nối cho cánh tay dài ra để gắp thức ăn xa cho mình hay cho người khác.

Quan hệ biện chứng âm dương cũng được người Việt coi trọng, các món ăn trong bữa phải làm sao bảo đảm có sự cân bằng âm dương. Người Việt tuân thủ rất nghiêm ngặt luật âm dương bù trừ và chuyển hoá khi chế biến như: gừng, ớt, tiêu (dương) thường dùng làm gia vị đi kèm với cá, tôm, cua, mắm, gỏi… (âm).

Ngoài việc chú trọng sự quân bình âm dương trong lúc chế biến các món ăn, người Việt cũng coi trọng việc làm sao giữ được sự quân bình âm dương trong cơ thể và quan trọng hơn cả là làm sao bảo đảm được sự quân bình âm dương giữa con người với môi trường thiên nhiên, nên tập quán ăn uống cũng được linh động theo vùng khí hậu và theo từng mùa:
“Thu ăn măng trúc, đông ăn giá,
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao”.

Ăn uống là việc khá hệ trọng vì giúp đảm bảo đời sống con người. Ngoài ra, nghệ thuật ẩm thực còn phản ánh những thú vui tiêu khiển của người Việt như tục ăn trầu và uống rượu. Nét văn hoá này càng làm cho đời sống của người Việt thêm thi vị phong phú.

Tóm lại, những gì ta đã tìm hiểu trên cho thấy người Việt Nam không chỉ “ăn cho no cho béo” mà còn “ăn lấy thơm lấy tho”, như cốt thể hiện nét đẹp văn hóa thực sự.     

* Văn hóa Ở

Đối với những người làm nông nghiệp, ngôi nhà là tổ ấm để đối phó với nóng lạnh, nắng mưa, gió bão… Đây là một yếu tố quan trọng trong việc ổn định cuộc sống, bởi có “an cư thì mới lạc nghiệp”. Những ngôi nhà sàn, nhà tranh vách đất, nhà ngói… lần lượt được người Việt chọn làm nơi ở cho mình. Chọn hướng, chọn đất làm nhà theo thuật phong thuỷ cũng được người Việt nghiên cứu kỹ lưỡng. Hướng Đông Nam và hướng Nam được người Việt chọn nhiều nhất vì có gió nồm từ biển mát mẻ và trong lành, lại tránh được gió nóng từ phía Tây và gió lạnh từ phía Đông Bắc. Hơn nữa, việc chọn đất xây nhà cũng rất quan trọng: “Nhất cận thị, nhị cận giang” hay “nhất cận sơn, nhị cận thủy”.

Hình thức kiến trúc của ngôi nhà cũng được người Việt coi trọng bởi nó phản ánh đặc điểm tâm hồn, con người, nghề nghiệp truyền thống của văn hoá dân tộc.

Vì thế, “nhà ở” của người Việt Nam, theo một nghĩa nào đó là chính con người, vì nếu nói “văn là người”, thì ta cũng có thể nói được rằng “kiến trúc cũng là người”  . Do đó, nếu phải lấy một cái gì đó làm nét đặc trưng của kiến trúc Việt Nam, thì đó chỉ là kích thước vừa tầm với con người. Những ngôi nhà, đình làng, những công trình mang tính công cộng không cao, không to, không bề thế nhưng đặc biệt có mái cong và cũng không có những ngọn tháp vươn lên xé toạc bầu trời như những ngôi nhà ở Tây Phương. Nhà ở của người Việt hài hoà với thiên nhiên, với con người, với đất trời. Thử lấy một vài công trình kiến trúc đã trở thành biểu tượng cho văn hoá Việt Nam như Tháp Rùa ở Hồ Hoàn Kiếm, Chùa Một Cột, hay Khuê Văn Các ở Văn Miếu. Những công trình này có tầm vóc khiêm tốn nhưng hài hoà. Khi bước vào trong, người ta cảm nhận như bước vào một cõi tâm linh nào đó giữa một phố thị ồn ào. Nó làm cho người ta có cảm giác an bình thư thái, như được hoà nhập vào trong cái toàn thể hài hoà giữa con người với trời đất, vạn vật.

Chính ở điểm này mà Lm. Thiện Cẩm đã nhận xét như sau: “Có thể nói đặc trưng của văn hoá Việt Nam chính là chỗ nó là một nền văn hoá rất nhân bản, vì nó vừa tầm với con người, một con người luôn luôn sống hoà hợp với thiên nhiên, vạn vật. Nền văn hoá ấy thích cái gì nhỏ bé, khiêm tốn, nó thiên về nội tâm hơn là muốn vươn cao lên chinh phục bầu trời, hoặc trải ra ngoài lấn chiếm không gian. Sở dĩ thế là vì đối với người Việt Nam chúng ta, cái hay, cái đẹp, không nhất thiết phải là cái to cao, vĩ đại. Triết lý Đông Phương hướng về sự tổng hợp và hài hoà. Người Việt thích sống trong một không gian nhỏ bé nhưng hoà nhập vào một toàn thể bao la là đất trời”.

Ngoài ra, do trọng tính cộng đồng, người Việt dựng nhà để ở chung chứ không chia nhiều phòng nhỏ biệt lập như Tây Phương và theo triết lý âm dương, người Việt cũng coi trọng truyền thống số lẻ của văn hoá nông nghiệp nên nhà của người Việt thường là ba hoặc năm gian. Các kiến trúc lớn thì thường dựng theo lối tam toà, vào sân thì thường đi qua cổng tam quan, vào nhà thì phải đi qua bậc tam cấp…

* Văn hoá Mặc
Nét văn hoá thứ ba sau ăn, ở là mặc. Mặc nhằm ứng phó với môi trường nóng, rét, mưa gió và nhằm khắc phục những nhược điểm về cơ thể, tuổi tác. Vì vậy, mặc trở thành biểu tượng của văn hoá dân tộc. Chất liệu may mặc ngày xưa là tơ tằm, đay, gai và vải bông.

Từ thời các Vua Hùng, phụ nữ Việt Nam mặc váy, yếm còn nam giới thì đóng khố. Với thời gian, người Việt từng bước ăn mặc phù hợp với từng thời đại, lần lượt áo tứ thân, áo năm thân, áo ngắn, áo bà ba đối với nữ và quần lá toạ, quần tây, áo dài tay đối với nam.

Đến những năm 30 của thế kỷ XX, chiếc áo dài cổ truyền được cải biến thành áo dài tân thời. Cùng với sự sáng tạo, cách điệu, áo dài trở thành biểu tượng của người phụ nữ Việt Nam.

So với y phục của phụ nữ trên thế giới, chiếc áo dài của Việt Nam vừa có một lịch sử lâu dài, dù là cổ cao, hở cổ, hở vai… hoặc có ngắn tay, bó sát tay, dài ngắn khác nhau nhưng chủ yếu vẫn bám sát thân thể của người phụ nữ Việt Nam, vừa che phủ, vừa trang điểm cho người phụ nữ, tuy kín đáo mà vẫn lộ rõ nét và không kém phần khêu gợi!

Vì thế, chiếc áo dài có thể được coi như một trong những biểu tượng của văn hoá Việt Nam, tuy rất đơn sơ giản dị, nhưng cũng thanh cao và duyên dáng. Nó vừa bảo vệ, nghĩa là bao bọc thân thể người phụ nữ, vừa để lộ ra những đường nét đặc trưng của thân hình phụ nữ, một thân hình nhẹ nhàng uyển chuyển, nhưng vẫn đứng vững trong khi tà áo tung bay. Đó còn là biểu tượng cho lịch sử Việt Nam; một dân tộc tuy nhỏ nhưng vẫn đứng vững trước những cơn gió lốc của lịch sử. Nét đơn sơ giản dị của chiếc áo dài cũng có thể được coi như tâm hồn Việt Nam vốn bình dị, quen sống với những gì là nhỏ bé, ít ỏi  .

Tóm lại, những nét văn hoá mà chúng ta vừa tìm hiểu, từ địa lý, con người, nhận thức, tổ chức đời sống và ứng xử với môi trường, đã cho thấy chúng tác động, ảnh hưởng trực tiếp đến con người Việt Nam như thế nào. Phải chăng đây chính là cơ sở để tác giả Kim Định nhận định như sau: “Muốn thấy triết Việt thì đừng tìm trong sách nhưng phải tìm trong những lối sống”  . Và cũng phải chăng đây là lý do để nhiều người cho rằng: Triết lý luôn đi đôi với cuộc sống, bởi cuộc sống là chất liệu làm nên triết lý được khởi đi từ những suy tư tìm lời giải đáp cho cuộc sống. Triết lý được rút ra từ hiện thực của cuộc sống và không có triết lý đứng riêng bên ngoài đời sống nên chúng ta có thể nói được rằng triết lý chính là cuộc sống vậy.

Chính những gì người Việt thể hiện trong cuộc sống là những nét mang đậm phong cách Việt. Nhưng những nét văn hoá đó là những nét văn hoá nội sinh, liệu chúng có đứng vững khi có những nền văn hoá ngoại lai xâm nhập vào?
   
4. Ảnh hưởng từ hai nền văn hoá Ấn Độ và Trung Hoa
Theo tác giả Hoành Sơn, Việt Nam chúng ta nằm ở chỗ giao lưu của ba vùng văn hoá gốc: Văn hoá Đông Nam Á đi từ sông Dương Tử xuống tới các nước Đông Nam Á phía dưới, văn hoá Ấn Độ mà ta chịu ảnh hưởng qua Phật giáo, qua tiếp cận với các quốc gia Ấn hoá xưa như Phù Nam, Chân Lạp và Chăm, và cuối cùng văn hoá Trung Quốc. Tuy nhiên, văn hoá của các nước như Pháp đến sau cũng tác động không ít đến bề nổi hơn của chúng ta  .

Do có vị trí địa lý đặc biệt nên Việt Nam là nơi thuận lợi cho sự giao lưu, tiếp xúc với thế giới và cũng là nơi thường xuyên phải đối phó với nhiều cuộc xâm lược về quân sự và văn hoá từ phương Bắc xuống hay từ phương Tây sang. Văn hoá - văn minh Việt Nam đã hình thành và phát triển trong điều kiện lịch sử như thế.

Văn hoá là một thực tại sống động, luân chuyển và có tính kế thừa. Nếu không có hoạt động, không có giao lưu thì cũng không có bản chất xã hội của con người, và do đó cũng không thể có văn hoá. Chỉ trong giao lưu, tức diễn ra trong nội bộ cộng đồng với nhau, văn hoá mới có thể tồn tại. Như vậy, giao lưu và giao tiếp văn hoá là sự vận động thường xuyên của văn hoá.

Như chúng ta đã biết, người Việt sống bằng nghề nông, cảm nhận và tư duy theo lối tổng hợp, không có tính kỳ thị bài trừ nên dễ chấp nhận hay tiếp thu các trào lưu văn hoá khác. Tuy nhiên, những cuộc tiếp thu này có chọn lọc, tiếp thu cái hay của người làm của mình một cách biến báo, trong đó có văn hóa của Ấn Độ, Trung Hoa và Tây Phương. Trong phần này, người viết chỉ xin bàn đến ảnh hưởng của văn hoá Ấn Độ và Trung Hoa trên nền văn hoá Việt Nam.

 * Ảnh hưởng từ nền văn hoá Ấn Độ
Theo tiến sĩ Phạm Thái Việt và tiến sĩ Đào Ngọc Tuấn, có thể phân chia ảnh hưởng của văn hoá Ấn Độ lên văn hoá Việt Nam thành các đợt sóng lan toả  .
- Đợt lan tỏa đầu tiên: Sự du nhập của Phật giáo vào phía Bắc Việt Nam theo đường biển, bằng chứng là sự xuất hiện của Luy Lâu (Bắc Ninh), một trung tâm Phật giáo của Việt Nam vào khoảng thế kỷ thứ nhất sau CN.
- Đợt lan tỏa thứ hai: Là sự gặp gỡ với văn hoá Ấn Độ một cách gián tiếp thông qua văn hoá Trung Hoa vào thời kỳ Bắc thuộc ( từ tk I- tk X, và từ 1407 – 1427). Cùng với Nho giáo, Đạo giáo, người Trung Hoa đã mang đến Việt Nam dòng Đại Thừa mà chủ yếu là Thiền Tông và Tịnh Độ tông.

Rồi trong quá trình mở mang bờ cõi vào phía Nam, người Việt đã gặp gỡ với văn hoá Ấn Độ thông qua văn hoá của người Chăm (Trung Bộ) và giao lưu với văn hoá Óc Eo (Nam Bộ).
Cả hai nền văn hoá nói trên đều mang đậm màu sắc văn hoá Ấn Độ: thể hiện ở tôn giáo, kiến trúc và văn tự.
- Tôn giáo: Chúng ta nhận thấy hầu hết tất cả các tôn giáo của Ấn Độ đều có mặt trong văn hoá Chăm, tuy nhiên xét về mứùc độ ảnh hưởng lớn nhất vẫn là Bàlamôn giáo.
- Kiến trúc: Người Chăm để lại một di sản kiến trúc đầy tính nghệ thuật và tinh tế. Đó là các quần thể kiến trúc tháp Chàm. Một trong những quần thể tháp Chàm nổi tiếng ở Việt Nam là thánh địa Mỹ Sơn. Mỹ Sơn là điển hình tiêu biểu của giao lưu văn hoá, hội nhập văn hoá từ bên ngoài vào xã hội bản địa nhưng sau đó được chọn lọc và làm cho thăng hoa, biến thành nét văn hoá của mình. Một nét riêng rất ít tìm thấy trong những nền văn hóa cổ cách đây hàng ngàn năm ở Đông Nam Á .

Ngày nay, thánh địa Mỹ Sơn được UNESCO công nhận là di sản văn hoá thế giới (1/12/1999). Khu thánh địa Mỹ Sơn được đánh giá là rất có giá trị, đặc biệt với việc nghiên cứu văn hoá Chăm và nghệ thuật điêu khắc mang đậm ảnh hưởng văn hóa Ấn Độ cổ xưa . Những tháp của người Chăm này có ba chức năng: vừa là đền thờ, lăng mộ, vừa là nơi cư trú của các vị thần.
- Về văn tự: Người Chăm tiếp thu hệ thống văn tự Ấn Độ cổ (chữ Phạn – Sancrit) để tạo ra chữ viết của riêng họ.

Có thể nhận ra “Phật giáo” là “mẫu số chung” của những đợt sóng giao lưu với văn hóa Ấn Độ. Điều đó giúp chúng ta lý giải vì sao Phật giáo lại là yếu tố văn hóa ngoại sinh có ảnh hưởng mạnh mẽ nhất tại Việt Nam.      

* Ảnh hưởng từ nền văn hóa Trung Hoa
Văn hóa Việt Nam giao lưu với văn hóa Trung Hoa trong một thời gian rất dài, do đó, ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa đối với văn hóa Việt Nam cũng rất lớn. Điều này được thể hiện qua nhiều bình diện khác nhau trong đời sống của người Việt. Theo Ts. Phạm Thái Việt và Ts. Đào Ngọc Tuấn, có thể liệt kê ra những yếu tố cơ bản từ nền văn hóa Trung Hoa đã được người Việt hấp thụ và chuyển hóa   như sau:
- Về phương diện tôn giáo và đời sống tâm linh: Người Việt hấp thụ từ văn hóa Trung Hoa các tôn giáo lớn như Phật giáo đại thừa và Đạo giáo.
- Về thế giới quan: Triết lý âm dương ngũ hành, lịch âm, thuyết tam tài.
- Về chuẩn mực đạo đức xã hội: Chịu ảnh hưởng của Nho gia với những chuẩn mực “tam cương, ngũ thường”
- Về ngôn ngữ: Các từ Hán Việt chiếm phần đáng kể trong ngôn ngữ của người Việt ; chữ Nôm - một biến thể của Hán tự.
- Về kiến trúc, ăn, mặc, ở và một số kỹ năng canh tác nông nghiệp cũng được người Việt tiếp thu từ nền văn hóa Trung Hoa để làm phong phú hóa đời sống của mình.
- Về mặt chủng tộc: Người Việt hiện đại là kết quả của sự “hòa huyết” của những tộc người Bách Việt với người Hán.

Với những gì vừa liệt kê, chúng ta thấy rằng, văn hóa Trung Hoa đã len lỏi vào mọi ngõ ngách của đời sống người Việt và ảnh hưởng một cách đậm nét. Tuy nhiên, chính sách đồng hóa văn hóa của Phong Kiến phương Bắc vẫn phải chịu thất bại trước bản sắc văn hóa của người Việt. Người Việt đã chủ động tiếp thu văn hóa Trung Hoa để giữ vững độc lập, để giữ gìn “cái tôi” dân tộc của mình. Do đó họ chỉ tiếp thu những yếu tố văn hóa nào giúp họ bảo vệ được quyền tự chủ của dân tộc mà thôi.

Bên cạnh đó, người Việt còn biết kết hợp khéo léo ảnh hưởng của các nền văn hóa Đông Nam Á, văn hóa Ấn Độ, văn hóa Phương Tây nhằm dung hòa và điều tiết ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa để tạo nên một nền văn hóa đầy tính bao dung, tổng hợp, với giá trị mở, vốn không có ở các nền văn hóa gốc. Chính khối văn hóa tổng hợp mà người Việt có được đã cho phép họ khẳng định bản sắc riêng của văn hóa Việt Nam trong quan hệ văn hóa với các nền văn hóa khác. Điều này cho thấy người Việt có tính cởi mở, dễ tiếp thu, không kỳ thị bài trừ nhưng biết đón nhận các nền văn hóa khác, rồi chắt lọc những nét tinh túy của các nền văn hóa đó để bồi đắp và làm giàu cho nền văn hóa nước nhà.

Khi tiếp thu những tinh hoa của những nền văn hóa khác, người Việt cũng tiếp nhận cả những luồng tư tưởng, triết lý được các nền văn hóa ấy chuyển tải mà cụ thể là tiếp nhận ba hệ thống triết lý Nho, Lão, Phật hay còn gọi là Tam giáo Đông Phương.

Tóm lại, như biển cả là nơi hội tụ của mọi nguồn nước đổ về, Việt Nam tuy không phải là “biển cả” để tiếp nhận những dòng chảy của văn hóa nhưng ít ra cũng là nơi tiếp nhận hai nền văn hóa lớn: Ấn Độ và Trung Hoa. Nhờ đó, văn hóa Việt Nam được bồi đắp thêm những nét đẹp văn hóa, những tư tưởng triết lý của Nho, Lão, Phật. Những tư tưởng triết lý này đã ảnh hưởng và chi phối những suy tư về nhân sinh quan và vũ trụ quan của người dân Việt từ xưa đến nay để hình thành một thứ triết lý sống có lẽ không nơi nào có được.

III. TRIẾT LÝ SỐNG CỦA NGƯỜI VIỆT TRONG BÀI ĐỒNG DAO THẰNG BỜM

K. Jaspers đã khẳng định rằng: “Bao giờ còn con người trên mặt đất là còn có triết lý”. Thật vậy, nếu không có con người, không có lịch sử, văn hóa thì cũng chẳng có triết lý, vì con người vừa là chủ thể suy tư vừa là đối tượng được suy tư. Con người suy tư, tích lũy kinh nghiệm qua chính việc suy tư và cụ thể hóa những điều đã được suy tư vào cuộc sống. Nói rõ hơn, người Việt sống trong môi trường Đông Phương nên cảm nhận, suy tư về con người, về đời người trong tính cách Đông Phương đặc thù. Cả con người, môi trường, văn hóa, không gian và thời gian đều trở thành chất liệu của cuộc sống góp phần hình thành nên triết lý sống của người Việt.

Do trăm ngàn mối bận tâm về cuộc sống, từ những quan niệm dân gian đến thực tiễn; từ những suy luận chung chung đến những nét đặc sắc riêng… mà triết lý sống được hình thành. Cho nên triết lý sống được diễn tả qua nhiều hình thức: từ lời ăn tiếng nói, từ mối tương quan trong gia đình thân tộc cho đến làng xã, đất nước. Triết lý sống không những được diễn tả qua cái “tri” mà còn được thể hiện qua cái “hành”, “tri hành” như nhất. Triết lý sống của người Việt không những được diễn tả qua những áng văn chương bác học mà còn được diễn tả qua những câu tục ngữ, ca dao, đồng dao… mà bài đồng dao Thằng Bờm là một ví dụ điển hình:

“Thằng Bờm có cái quạt mo,
Phú Ông xin đổi ba bò chín trâu.
Bờm rằng: Bờm chẳng lấy trâu,
Phú Ông xin đổi ao sâu cá mè.
Bờm rằng: Bờm chẳng lấy mè,
Phú Ông xin đổi một bè gỗ lim.
Bờm rằng: Bờm chẳng lấy lim,
Phú Ông xin đổi đôi chim đồi mồi.
Bờm rằng: Bờm chẳng lấy mồi,
Phú Ông xin đổi nắm xôi. Bờm cười”.
                                            (Đồng dao Việt Nam)

1. Xuất xứ bài đồng dao và nhân vật Thằng Bờm
Chúng ta biết rằng, những bài đồng dao là sự đúc kết những kinh nghiệm, những suy tư, những tình cảm… được ghi lại bằng ngôn ngữ có vần, điệu, nhạc - một hình thức nghệ thuật hay còn gọi là văn học bình dân, mang tính cộng đồng. Có thể bài đồng dao Thằng Bờm không thuộc về một tác giả độc lập nào nhưng là tác phẩm của một nhóm người, qua nhiều năm tháng mới hoàn thành (?) Có lẽ vì vậy mà tất cả những bài đồng dao trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam đều không có têân tác giả.

Ai là tác giả của bài đồng dao Thằng Bờm? Chúng ta không thể và không cần biết tên tuổi của tác giả nhưng có điều chắc chắn, tác giả của bài đồng dao này phải là cha ông chúng ta. Theo tác giả Nguyễn Văn Thành, có thể bài đồng dao này ra đời vào đời Lý hoặc đời Trần, có khi còn sớm hơn .

Thằng Bờm, một nhân vật đặc biệt trong bài đồng dao nhưng thực chất Thằng Bờm là ai? Một câu hỏi xem ra không dễ cũng không khó để trả lời! Tuy nhiên, chắc chắn Thằng Bờm là con trai nhưng tên của cậu bé có ý nghĩa gì thì bài đồng dao không nói tới. Có lẽ trong quan hệ tiếp xúc hàng ngày, người ta không cần gọi tên cậu bé cho đúng làm gì vì người ta cho rằng Thằng Bờm chỉ là thằng khờ, thằng ngốc. Nhưng khi nói đến Thằng Bờm, người nào cũng có thể nhận ra cậu trai này còn mang “cái bờm”, như nhiều trẻ em Việt Nam khác, nên danh “Thằng Bờm” ngoài việc phản ánh phái tính còn phản ánh địa vị xã hội của cậu, cậu chỉ là kẻ “vô danh tiểu tốt”, chưa có một chức vị hay giá trị nào khả dĩ đòi hỏi mọi người phải kính trọng, hay người trong làng, trong xóm phải cất mũ cúi chào, xưng hô cho đúng lễ nghĩa gia phong.

Trong tục lệ ăn nói của người Việt, vào những dịp kỵ giỗ, đám đình, hội hè… gọi ai bằng thằng là biểu lộ thái độ khinh thị: thằng ấy chẳng ra gì, thằng ấy là đồ ăn trộm, ăn cướp hay thằng vô lễ!

Tuy nhiên, trong một ngữ cảnh nào đó như trong bài đồng dao này, Thằng Bờm chưa làm gì xấu để đáng bị khinh khi như vậy. Theo Nguyễn Văn Thành, “thằng” ở đây chỉ là thằng con trai, trên dưới mười tuổi , “ăn chưa no, lo chưa kỹ” nên chưa hiểu biết gì về giá trị của ba bò chín trâu, của ao sâu cá mè, của bè gỗ lim…

Dù chưa đến tuổi lo và chưa biết nhận thức giá trị của sự vật. Nhưng câu đầu của bài đồng dao lại khẳng định: “Thằng Bờm có cái quạt mo”. Động từ “có” này như ta đã biết, nói ai có cái gì là nói người đó có chủ quyền trên vật đó. Thằng Bờm không phải là thằng khờ, thằng ngốc nhưng nó đã biết dùng dao kéo vào những việc có ích, đó là biết cắt mo cau làm quạt, biết sử dụng trí óc và chân tay, một việc làm có giá trị đối với bản thân Thằng Bờm và xã hội.

Quả thật, nếu chỉ hiểu và dừng lại với tính chất một cuộc trao đổi giữa hai nhân vật Phú Ông và Thằng Bờm, chúng ta thấy đây cũng chẳng khác gì những cuộc trao đổi, mua bán diễn ra thường ngày. Nhưng có một điều sâu xa hơn mà tác giả của bài đồng dao muốn cho chúng ta biết, qua nhân vật Phú Ông và Thằng Bờm, là bối cảnh của cuộc sống đương thời, là những mối tương quan giữa các giai cấp trong xã hội, là những suy tư, cảm nghĩ, là những ước mong và cả những triết lý sống được diễn tả qua cuộc sống của người dân Việt Nam.
 
2. Thằng Bờm và Phú Ông – những hình hoạ tiêu biểu về lối tư duy và cách sống của người Việt Nam

Như chúng ta đã tìm hiểu ở những phần trên, người Việt sống bằng nghề nông nên có khuynh hướng, cảm nhận và tư duy theo lối tổng hợp, kết hợp biện chứng âm dương trong mọi lãnh vực của đời sống. Do những nhu cầu cấp bách của cuộc sống phải đáp ứng như: cơm ăn, áo mặc, người Việt còn phải tuân giữ những quy tắc, luật lệ của xã hội và những mối tương quan quân thần, phụ tử, phu phụ, bằng hữu; giữa gia đình và lối xóm, giữa cá nhân và cộng đồng. Thằng Bờm và Phú Ông là những người Việt Nam nên dĩ nhiên, cũng phải sống và giữ những tương quan đó. Bởi đó, Thằng Bờm và Phú Ông cũng có những suy tư, cách xử thế và cách sống của người Việt Nam.

Trong bài đồng dao, bối cảnh mà tác giả đưa ra không có một thời gian và không gian cụ thể. Những món hàng được đưa ra để trao đổi cũng phần nào gần gũi, không phải là vàng bạc, đá quý nhưng là quạt mo, trâu bò, ao cá, gỗ lim, chim đồi mồi và nắm xôi.

Không nói đến không gian và thời gian, có nghĩa là tác giả muốn cho nhân vật Thằng Bờm và Phú Ông trở thành những nhân vật sống, những hình mẫu tiêu biểu trong lối tương quan giữa người với người dù phải sống trong một xã hội “tranh tối tranh sáng”.

Thật vậy, tương quan giữa Thằng Bờm và Phú Ông, nếu xét về giai cấp, chức vụ, là một tương quan bất đối xứng. Có thể nói, Phú Ông đại diện cho giai cấp quý tộc, nắm quyền cai trị. Còn Thằng Bờm chỉ là thứ dân, những người lao động nghèo, quanh năm làm lụng vất vả. Hệ quả của sự phân chia giai cấp này được du nhập từ Phương Bắc là Trung Hoa. Chế độ phong kiến Trung Hoa đã được nhiều triều đại vua chúa Việt Nam chọn làm kiểu mẫu cho việc điều hành nhà nước phong kiến của mình.

Phong kiến, nếu hiểu theo nghĩa nguyên thuỷ, thì không có gì là xấu. Phong, có nghĩa là phong vương. Kiến, tức là kiến địa, ý nói phong chức tước cho ai thì cấp đất cho người đó. Ở Trung Hoa đã có những ông vua kiểu mẫu như: Vua Nghiêu, vua Thuấn, các vua nhà Hạ, họ được gọi là những thánh vương. Nhưng sau này, có những ông vua lên thay không có đạo đức, sống xa hoa, mê tửu sắc, bóc lột dân chúng và làm cho hình ảnh nhà nước phong kiến mất giá trị trong lòng dân.

Tương tự, ở Việt Nam, cũng có những ông vua thương dân, lo cho dân. Họ thực sự là những “Thiên Tử” trông coi thiên hạ, thay Trời trị dân nhưng cũng có những ông vua tàn ác, trở thành những bạo chúa. Như vậy, vua không còn là Thiên Tử nhưng đã trở thành những kẻ đê tiện, làm cho Trời không dung, đất không tha, lòng người căm ghét.

Vì thế, khi gặp phải hoàn cảnh xã hội rối ren, vua không ra vua, tôi không ra tôi thì “ thượng bất chính, hạ tắc loạn” sẽ là một điều không thể tránh. Vua không nghiêm minh để cho những tên quan lại nhũng nhiễu ức hiếp con dân. Khi quan lại trở thành khí cụ bóc lột thì chắc chắn quan hệ giữa vua quan và thứ dân không còn tốt đẹp như thủa ban đầu nữa.

Thằng Bờm - những người nông dân Việt Nam - đã phải sống trong hoàn cảnh xã hội như thế, thì thử hỏi làm sao họ được hạnh phúc, an hoà, ấm no? Làm sao họ được an nhàn, thư thái khi thường xuyên phải đối mặt với những “Phú Ông” - đại diện cho một giai cấp, giai cấp địa chủ giàu có ở thôn quê? Đối đầu với giai cấp này, bài đồng dao đã chọn nhân vật Thằng Bờm đại diện cho giai cấp nông dân nghèo khổ. Không phải ngẫu nhiên mà Vũ Ngọc Phan đã xếp bài đồng dao Thằng Bờm vào đề tài: “Những mâu thuẫn trong sinh hoạt giữa nông dân và địa chủ”. Thằng Bờm là một người nghèo, một nông dân phải đối đầu với một người giàu, một nhà địa chủ. Thằng Bờm không còn là một đứa bé “ăn chưa no, lo chưa kỹ” nữa mà là một số đông người nghèo khổ. 

Một điều đáng ngạc nhiên, mà bài đồng dao này đề cao là tương quan giữa Thằng Bờm, đại diện cho người nông dân nghèo và Phú Ông, người đại diện cho cho giai cấp địa chủ, lại là tương quan đối thoại chứ không phải đối đầu như thường thấy. Phú Ông không thúc ép, bắt nạt Thằng Bờm, nhưng tỏ ra nhẫn nại, tôn trọng nó. Trái lại, Thằng Bờm không sợ hãi, khiếp kinh khi phải đối mặt với một người vừa có của cải, vừa có địa vị, vừa có chức quyền. Xét về giai cấp, địa vị, danh giá, Phú Ông hơn Thằng Bờm ngàn phần.

Thế mà Phú Ông không dựa vào quyền thế của mình để chiếm đoạt quạt mo của Thằng Bờm nhưng lại ngồi thương lượng, trao đổi bằng cách đưa ra những món hàng là những tài sản có giá trị và thuộc quyền sở hữu của mình. Thằng Bờm không sợ sệt nhưng sẵn sàng từ chối những điều mình không thích, cho dù đó là những món tài sản kếch xù. Nguyên nhân nào dẫn đến một cuộc trao đổi kỳ lạ như vậy?

Thằng Bờm đại diện cho tầng lớp nông dân nghèo khổ, suốt ngày lao động vất vả nhưng vẫn nghèo. Trong khi đó, Phú Ông đại diện cho giai cấp địa chủ, chức quyền; là những người “ngồi mát ăn bát vàng”. Một xã hội bị phân hoá giàu nghèo, sang hèn như thế, thử hỏi những người thấp cổ bé miệng sống hạnh phúc ấm no thế nào được?

Hình ảnh Thằng Bờm, Phú Ông và cuộc trao đổi diễn ra trong bài đồng dao là mơ ước của biết bao nhiêu người sống trong xã xã hội thời bấy giờ, đặc biệt là những người nghèo khổ. Họ ước mong được sống trong một xã hội hài hoà, người người biết tôn trọng nhau, không phân biệt giàu nghèo, sang hèn, thứ dân hay quý tộc, vì ai cũng là người mà giá trị của con người thật cao quý. Muốn có một xã hội hài hoà thật sự thì người giàu có, quan quyền không dựa vào chức vụ, quyền uy của mình để ức hiếp người yếu thế, người nghèo khổ mà dùng chức vụ hay quyền uy của mình để phục vụ những người anh em đồng loại. Những người nghèo khổ thì không sợ hãi, không khúm núm khi phải đối diện với quan lại, hoặc những người có chức, có quyền mà phải sống đích thực là mình, sống như những người tự do và đáng được hưởng những nhu cầu chính đáng của cuộc sống, quyền được làm người và là người tự do. Xét trên khía cạnh này, giá trị nhân phẩm và địa vị xã hội của Thằng Bờm và Phú Ông được nâng lên ngang hàng. Họ đều đáng được tôn trọng, vì họ là những nhân vị đích thực, có tự do và có quyền trên mọi tư tưởng, lời nói, hành động, và cả những của cải vật chất họ đang sở hữu mà không ai có quyền xâm phạm.

Trong bài đồng dao, Phú Ông không cậy thế nhiều tiền, nhiều của để bắt chẹt người nghèo, không cậy thế “người lớn bắt nạt con nít”; nhưng khi thích cái quạt mo, muốn có cái quạt mo, ông phải lên tiếng thương lượng, trao đổi thực tình. Đáp lại, Thằng Bờm cũng không tham lam, không tự ti mặc cảm, mà rất nghiêm chỉnh trong cuộc trao đổi. Điều này nói lên một chi tiết rất quan trọng trong cuộc ngả giá, thương lượng là biết lắng nghe. Thằng Bờm và Phú Ông đều lắng nghe nguyện vọng của nhau, tôn trọng nhau trong lời ăn tiếng nói.

Thể thơ lục bát của bài đồng dao này được thể hiện một cách hài hoà. Thằng Bờm ít tuổi và chỉ có cái quạt mo nên làm chủ ngữ câu sáu. Phú Ông hơn tuổi và có đủ thứ: trâu bò, ao cá, gỗ lim, chim đồi mồi nên làm chủ ngữ câu tám. Mỗi người làm chủ một câu, thay phiên nhau phát biểu ý kiến. Mỗi bên thoải mái trao đổi quan điểm của mình, cho đến lúc đồng ý thì hai bên cùng làm chủ câu kết. Bờm cười và chắc chắn vui hơn, hai bên cùng thỏa mãn với kết quả mình vừa đạt được.

Cuộc trao đổi giữa Thằng Bờm và Phú Ông còn biểu lộ trong thái độ và lời nói biết tôn trọng tha nhân, tôn trọng người đối thoại và tự trọng đúng mức. Không có chuyện mày tao, trịch thượng phách lối hay nhút nhát, khúm núm nhưng tỏ thái độ tôn trọng nhau từ đầu đến cuối. Phú Ông lịch sự “xin đổi, xin đổi”. Thằng Bờm lễ độ thưa “rằng”, thưa “rằng”. Hai bên ôn tồn nhã nhặn, tương thân, tương kính nhau trong suốt cuộc thương lượng.

Triết lý của cuộc thương lượng này như ngầm nói: Trong xã hội, trong những mối tương quan giao tế, muốn tạo mối hoà hợp, người ta cần phải nhận ra được nhu cầu sâu xa và căn bản nhất của con người. Đó là nhu cầu được tôn trọng, được mọi người nhìn nhận “cái tôi” của mình, sự quan trọng của việc mình làm và nhất là muốn được chung sống hoà bình, được mọi người thông cảm. Vấn đề xung đột, xung khắc giai cấp ngày xưa đã được bài đồng dao giải đáp bằng sự tương giao, tương quan nhân vị, nhân bản.

Thằng Bờm tôn trọng Phú Ông vì tuổi tác và địa vị xã hội là chuyện thường tình, phù hợp với nguyên tắc “kính trên nhường dưới”. Nhưng ở đây, Bờm còn tôn trọng nhu cầu chính đáng và ý kiến trao đổi của Phú Ông. Đáp lại, Phú Ông tôn trọng Thằng Bờm, vì Bờm cũng là người, có giá trị nhân vị cá thể, dù bên ngoài có vẻ khờ khạo, nhưng bên trong là thiện tâm, là tính tình chân thật chất phác. Phú Ông còn tôn trọng cả cái quạt mo của Thằng Bờm, vì đó là tài sản duy nhất Bờm có trong tay.

Từ thái độ tôn trọng Thằng Bờm, nên không vì thấy Bờm ngây thơ khờ dại mà Phú Ông bắt nạt, dùng sức mạnh người lớn để cướp lấy quạt mo của thằng bé. Phú Ông cũng không dùng lời lẽ ngon ngọt dụ dỗ Thằng Bờm để xin cái quạt. Phú Ông cũng không dùng mánh khoé, mượn cái quạt để xem từng chi tiết rồi làm quạt giống y như quạt của Bờm. Phú Ông không bóc lột sức lao động của Bờm, cũng không ăn cắp “bản quyền sáng chế”, dù rất dễ như cái quạt mo của Bờm. Ý niệm công bằng xã hội đã được dân gian Việt Nam đề cao trong ý thức thương người của Phú Ông.

Thằng Bờm cũng vậy, Bờm không vì đói mà tham lam. Bờm cũng không vì nghèo, chỉ có cái quạt mo, mà tán tận lương tâm, thấy trâu bò, ao cá, gỗ lim, chim đồi mồi, để chớp lấy cơ hội đổi ngay. Bờm không quảng cáo, không rao bán, không nói nửa lời khen chê cái quạt mo của mình. Bờm biết giá trị thực của cái quạt, và cái giá tương đối để đổi lấy đồ vật hay đồng tiền tương xứng trong trao đổi. Đó là tính công bằng mà một người như Bờm không thể đánh lừa lương tâm, đúng là:
“ Thiện căn ở tại lòng ta,
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”  .

Trong ngôn ngữ thường ngày của người Việt Nam, chúng ta thấy khó lòng áp dụng chữ “Thiện” cho một vật nào ngoài con người và thần thánh. Phải chăng “nhân chi sơ tính bản thiện” đã có sẵn trong Bờm và bây giờ là dịp thuận tiện nhất để tỏ lộ ra?

Thuận mua vừa bán, một vừa hai phải chứ không vượt qúa mức hợp tình hợp lý mà công lý và công luận chấp nhận. Do đó khi nghe đề nghị nắm xôi thì Bờm cười, Bờm đồng ý. Một người tưởng như khờ dại mà lương tâm trong sáng, biết tôn trọng công bằng xã hội.

Trong thể thức trao đổi, theo Nguyễn Văn Thành, Thằng Bờm tỏ ra là “người”, vì Bờm là chủ thể có nhân cách vững mạnh với những giá trị tự tại, nhất là trong vấn đề ý thức, biết mình, biết người. Biết mình cho gì và có thể nhận gì, so với thực tế trao đổi “vừa có lý vừa có tình”  .

Khả năng từ chối “Bờm rằng Bờm chẳng lấy” được lặp đi lặp lại bốn lần khẳng định một cách rõ nét ý chí tự quyết và tư cách “tri túc” của Thằng Bờm.

Tóm lại, chúng ta có thể nói được rằng, Thằng Bờm và Phú Ông trong bài đồng dao này  đã trở nên những hình họa tiêu biểu về lối tư duy và triết lý sống của người Việt. Nói và làm, suy nghĩ và hành động, lý trí và con tim đều được người Việt chuyển tải và thể hiện trong cuộc sống. Biết tôn trọng tha nhân, biết tương thân tương kính, biết tôn trọng công bằng xã hội và yêu cuộc sống hoà bình. Thằng Bờm và Phú Ông có thể được ví như người quân tử trong Khổng học, thánh nhân trong Lão học  và đặc biệt là một người Việt Nam chân chính, xứng đáng là Con Rồng Cháu Tiên.
   
3. Giá trị hình tượng của cái Quạt Mo và Nắm Xôi
Việt Nam là một trong những cái nôi của nền nông nghiệp trồng lúa nước. Cuộc sống thôn dã với hình ảnh cây đa, bến nước, sân Đình, được điểm tô bởi màu xanh của lúa, của tre. Dân cư sống thành làng mạc, trồng dâu nuôi tằm, đào ao thả cá. Cuộc sống nông nghiệp khá vất vả nên phải có những con vật cày, bừa, kéo, chở. Con trâu, con bò trở thành những con vật chủ lực trong sản xuất.

Khi có hội hè đình đám, một thú tiêu khiển đã trở nên quen thuộc đối với các bà các cô là tục ăn trầu. Do đó, trầu cau đóng một vai trò quan trọng trong hội hè, đình đám, tang chế… và trở thành vật xúc tác cho mọi cuộc trao đổi: “Miếng trầu là đầu câu chuyện”.

Chính tục ăn trầu và ý nghĩa của miếng trầu đã góp phần tạo nên phong cảnh thiên nhiên ở nông thôn Việt Nam. Làng nào cũng có bóng dáng của cây cau, màu xanh của lá trầu. Khi lá cau vàng rơi xuống, người ta đem cắt phần bẹ, làm thành những cái quạt mo xinh xắn, phe phẩy tạo luồng gió mát xoa dịu những cơn nóng bức trưa hè.

Vì thế, hình ảnh cây cau đã trở nên quá quen thuộc đối với người Việt và cái quạt mo cũng rất đỗi bình thường trong con mắt của người Việt. Hình ảnh cây cau càng bình thường bao nhiêu thì hình ảnh cây lúa cũng giản dị bấy nhiêu. Nhưng có một điều rất quan trọng là chính cây lúa, tưởng chừng như bình thường, lại cho hạt gạo là nguồn lương thực chính yếu của cuộc sống người Việt.

Bữa cơm của người Việt không thể không có cơm, vì đây là món ăn chính. Với đời sống của một người nông dân trồng lúa, cơm gạo trở nên quen thuộc. Vì trồng lúa nên lúc nào người ta cũng mong có cơm, có gạo để ăn.

Chúng ta có thể nói được rằng, cái quạt mo và cơm ăn hàng ngày, đối với những người dân bình thường, chưa hẳn đã có giá trị cao. Nhưng đối với Thằng Bờm và Phú Ông, cái quạt mo và nắm xôi có một ý nghĩa và giá trị khác, vì sao?

Trước tài sản, lương thực, nhà cửa, thú vui, được thể hiện bằng trâu bò, ao sâu cá mè, gỗ lim, chim đồi mồi, thái độ kiên định của Thằng Bờm là “vô trước”, không tham lam, không vướng mắc, tâm hồn thanh thản nên Bờm không đuổi theo những nhu cầu giả tạo. Thái độ “vô trước” cho phép Thằng Bờm buông xả hoàn toàn, không còn tham dục, để chỉ bám trụ vào những nhu cầu hiện tại mà thôi. Đối với Thằng Bờm, một người có “tâm hồn trẻ thơ bé mọn”, không ao ước gì hơn “nắm xôi”, là của ăn bình thường nhưng có giá trị với người nông dân. Vì vậy, Bờm luôn được thanh thản với cái quạt mo phe phẩy biểu hiện một hạnh phúc nhàn tản tiêu dao. Điều ấy tuy có vẻ tầm thường mà biết bao “phú ông”, biết bao bậc quyền quý ao ước, muốn “mua”, muốn “đổi” cũng không được !

Vì vậy, chọn lựa của Bờm là đời sống hạnh phúc và an lạc được diễn tả trong nụ cười của Bờm - nụ cười của Bồ Tát Di Lặc. Không gì, không ai, không một trở ngại nào có thể làm khô héo “đoá hoa nụ cười” ấy.

Có một vấn đề được đặt ra là tại sao Thằng Bờm lại từ chối tất cả những của cải vật chất có giá trị để chỉ lấy một nắm xôi?

Một nắm xôi có giá trị gì so với ba bò chín trâu, một lực lượng sản xuất to lớn, vì “con trâu là đầu cơ nghiệp”. Một ao sâu cá mè có thể nuôi sống hàng tháng, hàng năm một nhân khẩu hay một gia đình ở thôn quê. Một bè gỗ lim có thể dựng một căn nhà khang trang, kiên cố, không còn sợ mưa nắng, giông bão. Đôi chim đồi mồi có thể tạo nên thú vui trong hành động săn bắn. Những của cải vật chất trên có thể tạo cho Bờm một cuộc sống đầy đủ về vật chất, một cuộc sống thư thái, thoải mái về tinh thần?

Xét về mặt vật chất và tiện nghi xã hội, nắm xôi chẳng đáng giá trị gì so với những vật được Phú Ông đề nghị trao đổi. Nhưng những vật phẩm đó có mang lại cho Bờm một phút giây làm Bồ Tát Di Lặc Không?

Về mặt khôn ngoan bình thường hay là trên quan điểm hoàn toàn duy lý, chọn lựa của Thằng Bờm có lẽ sẽ bị rất nhiều người trong chúng ta phê phán và cho là ngu dại, ngây ngô, “ăn chưa no, lo chưa tới” và có phần thực dụng, chỉ thấy những điều trước mắt, chưa biết nhìn xa trông rộng.

Ngược lại, bài đồng dao cho thấy hạnh phúc con người không hệ tại ở tiền của. Phú Ông đã có đủ thứ mà vẫn thích, vẫn thèm một cái quạt mo. Ông thấy “quạt mo của Bờm” có thể là phương tiện đem lại cho ông những phút giây thảnh thơi, an nhiên tự tại, một nhu cầu của tinh thần, của tâm linh. Nếu “nhà giàu cũng khóc” thì có khi nhà nghèo lại rộn rã tiếng cười. Vì không phải chỉ có vật chất mới đem lại hạnh phúc. Phú Ông đề nghị được trao đổi với Bờm đủ thứ nhưng Bờm chỉ nhận nắm xôi. Vấn đề cơ bản của xã hội khi muốn phục vụ con người trước hết là cơm áo, vì “có thực mới vực được đạo”, thứ đến mới là những tiện nghi thiết thực khác của cuộc sống. Đó là những nhu cầu chính đáng đưa cuộc sống con người vượt lên trên cuộc sống bầy đàn của loài vật…

Tuy nhiên, đối với một người nghèo khổ, quanh năm suốt tháng sống trong cảnh túng quẫn, chưa ăn bữa trưa đã lo bữa tối, một nắm xôi có thể nuôi sống người đó qua ngày. Nhưng dù sao chất dinh dưỡng mà nắm xôi có thể nuôi sống người ấy cũng chỉ nhất thời? Ăn hết nắm xôi, người ta lại tiếp tục phải đối diện với những cơn đói khác? Nếu nghĩ đến điều đó, Thằng Bờm đã không chọn nắm xôi mà sẽ chọn những vật phẩm như trâu bò, ao cá, gỗ lim, chim đồi mồi là những thứ có giá trị về mặt kinh tế, có giá trị cao, có lợi nhuận nhiều. Lý do nào Thằng Bờm lại bỏ lỡ một cơ hội hiếm có như vậy? Nguyên nhân nào thúc đẩy Thằng Bờm chỉ chọn cái nhất thời, tức nắm xôi? Nếu xét về lâu về dài, hoặc nói theo ngôn ngữ ngày nay, thì đó là một chọn lựa không có tương lai. Và xét theo sự thường, Thằng Bờm không có một chiến lược lâu dài cho đời sống, cho tính mạng và cho cả kinh tế của mình nữa. Nếu nói Thằng Bờm đại diện cho giai cấp nông dân, dĩ nhiên những người này đa số làm nghề nông, thì tại sao lại lâm vào cảnh túng quẫn đến nỗi không có cơm ăn mà phải trông chờ vào việc trao đổi mới có lương thực nuôi sống? Vì sao nắm xôi lại được đề cao như vậy?

Một điều quan trọng mà chúng ta có thể biết được là trong quá trình trao đổi, Bờm đã chọn nắm xôi, nắm xôi này có giá trị tương đương với cái quạt mo. Qua nắm xôi, người Việt đề cao giá trị của hạt gạo. Do làm nghề nông, người Việt biết phải khó nhọc thế nào mới có được hạt gạo. Công việc đồng áng như cày cấy, chăm sóc cây lúa, chờ đợi ngày thu hoạch với bao nhiêu công sức bỏ ra. Khi bưng bát cơm đầy, người Việt nào cũng biết rằng:
“Ai ơi bưng bát cơm đầy,
Dẻo thơm một hạt, đắng cay muôn phần”.

Do đó, người Việt quý hạt gạo như hạt vàng, vì chính hạt gạo là nguồn lương thực nuôi sống họ. Vì thế, tác giả Phan Ngọc đã nói rằng: “Người trồng lúa không phải vì hạt lúa mà vì bát cơm”. Như vậy, hạt gạo, bát cơm là vấn đề sống còn của người dân Việt, đặc biệt là người nông dân. Họ là người trực tiếp sản xuất ra hạt gạo nên biết nó có giá trị và quý báu đến mức nào. Làm nông nghiệp, nếu chỉ cậy dựa vào sức mình, vào kỹ thuật canh tác, vào hạt giống mà thôi thì chưa đủ mà còn phải trông chờ vào thời tiết “mưa thuận gió hòa”. Người ta lo lắng những ngày nắng hạn, mất ngủ những đêm bão giông. Để có được bát cơm ăn, nắm xôi, người ta phải cần đến những yếu tố thiên thời, địa lợi, nhân hoà biết chừng nào!

Để có được hạt gạo, người nông dân phải một nắng hai sương, làm lụng vất vả. Hạt gạo được làm ra không được xem đơn thuần chỉ là hạt gạo nhưng đã được gửi vào đó tất cả những gì có thể: Từ vị phù sa của đất, có hương thơm của sen, có lời hát, có ngọt bùi, có đắng cay, có mưa, có nắng, có những giọt mồ hôi của con người… Vì thế, Nhà thơ Trần Đăng Khoa đã viết những dòng đầy cảm xúc như sau:

“Hạt gạo làng ta
Có vị phù sa
Của sông Kinh Thầy
Có hương sen thơm
Trong hồ nước đầy
Có lời mẹ hát
Ngọt bùi đắng cay…
Hạt gạo làng ta
Có bão tháng bảy
Có mưa tháng ba
Giọt mồ hôi sa
Những trưa tháng sáu
Nước như ai nấu
Chết cả cá cờ
Cua ngoi lên bờ
Mẹ em xuống cấy…”
                                   (Hạt gạo làng ta)

Khi bàn về giá trị của nắm xôi, chúng ta thấy có sự liên hệ giữa nắm xôi trong bài đồng dao này với gạo nếp mà Lang Liệu đã dùng để làm bánh trong câu truyện “Bánh Chưng Bánh Dày” khi được “thần nhân” bảo rằng: “Trong trời đất không có vật gì quý bằng gạo, vì gạo là của để nuôi dân, người ta ăn mãi không chán, không có vật gì đứng trước được…” Lang Liệu kinh sợ tỉnh dậy mừng rằng: “Thần minh giúp ta, ta nên bắt chước theo mà làm”. Quả thật, sau khi đã làm thứ bánh như thần nhân bảo, Lang Liệu đem dâng vua cha: “Vương thân hành nếm thử thì thấy vị ngon vừa miệng, ăn mãi không chán”.

Theo Nguyễn Đăng Trúc, khi nói, trong trời đất không có vật gì quý bằng gạo, vì gạo là của để nuôi dân, người ta ăn mãi không chán: tác giả đặt nổi vai trò đặc biệt của một chất liệu quan trọng, làm nền: đó là gạo. Không có gạo, chắc chắn không có bánh chưng và Lang Liệu khó được giải nhất. Cũng thế, không có gạo, chắc chắn sẽ không có nắm xôi cho Thằng Bờm. Tác giả còn nhấn mạnh thêm là người dân… ăn mãi không chán. Tượng trưng này vừa có nghĩa là sự sống, vừa là của nuôi làm cho sự sống liên tục, sự sống thật. Như vậy, Thằng Bờm phải chọn của cải vật chất hay sự sống? Mà sự sống này không phải chỉ sống cho qua ngày nhưng là sự sống liên tục, sự sống thực. Câu hỏi này không khó để trả lời! Tất nhiên, như chúng ta thấy, Thằng Bờm chọn nắm xôi, tức của nuôi làm cho sự sống liên tục, sự sống thật. Bấy giờ giá trị của hạt gạo, của nắm xôi cũng đồng nghĩa với sự sống. Vì thế, không ai loại trừ sự sống khi đó lại là sự sống của chính mình. Về phương diện này, Thằng Bờm đã có một chọn lựa đúng đắn dựa trên giá trị của hạt gạo, của nắm xôi, không phải là giá trị thông thường nhưng là giá trị phi thường, giá trị của sự sống, giá trị này vượt trên tất cả.

Tóm lại, nếu hạt gạo tượng trưng cho sự sống, sự sống thật nên nó có giá trị thì quạt mo chính là phương tiện để con người xây dựng cuộc sống, như ta đã tìm hiểu trên. Cuộc sống con người không chỉ có những nhu cầu vật chất mà còn có những nhu cầu tâm linh. Những nhu cầu này cũng cần thiết, thậm chí còn quan trọng hơn cả những nhu cầu vật chất nữa. Việc dư thừa của cải nhưng đời sống tinh thần nghèo nàn sẽ dẫn cuộc sống đến chỗ vô nghĩa, bất thỏa. Khi cân bằng được nhu cầu vật chất và tinh thần, cuộc sống con người sẽ có những phút giây hạnh phúc của Bồ Tát Di Lặc, hạnh phúc đó không có gì có thể đánh đổi được.

IV. ĐIỂM NỐI KẾT GIỮA TRIẾT LÝ SỐNG TRONG BÀI ĐỒNG DAO THẰNG BỜM VÀ CUỘC SỐNG HÔM NAY CỦA NGƯỜI VIỆT NAM 
     
1. Những điểm sáng đáng ghi nhận
“Thằng Bờm” là bài đồng dao đem lại niềm vui hứng thú nhưng cũng chuyển tải được những bài học nhẹ nhàng, thấm thía cho con cháu muôn đời mai sau của người Việt. Nét đẹp hấp dẫn của bức tranh xã hội hài hoà toát ra từ những con người, bên ngoài có vẻ khờ khạo ngốc nghếch nhưng bên trong lại có tấm lòng trong sáng chan chứa tình người, đã đem ánh sáng và hơi ấm cho đời, đem nhân ái và công bằng cho xã hội. Ở đây sinh hoạt giữa người với người không phải là “địa ngục”, không phải là “sói dữ”, cũng không phải là “cá lớn nuốt cá bé” mà là trao đổi với nhau qua nắm xôi, cái quạt, như trao cho nhau trái đào tiên trong cõi thiên thai tuyệt diệu. Trong quan hệ trao đổi ấy, Thằng Bờm đã “mạc khải” mình như một con người có ý thức rất tinh vi, nhạy bén và sáng suốt “biết mình biết người”. Thằng Bờm có khả năng từ chối bằng cách nói “không” để khẳng định tính khác biệt của mình. Tôi khác, tôi có quyền và có những nhu cầu khác. Điều này rất đúng như J.J Rousseau đã nói: “Tôi duy nhất cảm thấy tâm hồn tôi, và tôi biết con người tôi không giống như người khác. Nếu tôi không biết họ thì ít ra tôi khác họ”. Vì thế, Thằng Bờm không một lần đánh mất mình, nói theo ngôn ngữ K. Marx là bị “vong thân” trước người khác, cho dầu người ấy là một Phú Ông có tiền tài, địa vị và nhất là một Phú Ông tỏ ra là người đại lượng, muốn ban phát. Trước sức quyến rũ, mặc dầu rất thành tâm của Phú Ông, Thằng Bờm cũng không để vật chất làm cho lòng ham muốn trỗi dậy nhưng đã biết từ chối và Bờm có khả năng cân đo, chọn lựa. Bờm có ý thức rõ ràng: tôi là ai, tôi có khả năng gì, tôi được gì và tôi muốn nhận gì? Bờm không ảo tưởng về mình nhưng biết mình đang đứng ở đâu trong bậc thang địa vị của xã hội.

Có vẻ như bị khinh khi, được gọi là “thằng” và mang tên là Bờm, vì một vài chòm tóc trên đầu của mình, nhưng Bờm vẫn “an nhiên tự tại”, không quan trọng hóa, không cường điệu. Càng không bị “kích thích” như một đối vật thụ động chịu ảnh hưởng tác động của ngoại cảnh. Một vài từ ngữ, danh hiệu cho dù có vẻ trêu chọc không làm cho Thằng Bờm “động tâm” nổi đoá, hay bị ngụp lặn trong tức tối, giận hờn.

Thằng Bờm không đuổi bắt một cách vô vọng những gì ngoài tầm tay của mình. Trái lại, hãnh diện, bằng lòng với kết quả do tay mình làm ra. “Tri túc” là biết mình giàu có, đầy đủ một cách tự lực, mà không trông chờ vào những chuyện may rủi, cơ hội để làm giàu cách bất chính.

Thằng Bờm cũng không dùng dao kéo để chơi trò bạo động, gây xung đột, chia rẽ, chiến tranh nhưng biết dùng dao kéo để biến mo thành quạt. Một điều đáng tự hào là con người Việt Nam sáng tạo để mang về cho mình và cho người một luồng gió mát. Một luồng sinh khí mới. Khả năng sáng tạo là “biến không thành có”. Biến bản thân mình còn tầm thường như mo cau, thành quạt mo có khả năng tạo hơi mát cho người, đây là một Sứ Điệp Tình Thương. Phải chăng ơn gọi và sứ mệnh của người Việt Nam là trở thành gió? Gió đến từ trời xanh của bà Âu Cơ. Gió thổi từ biển khơi của Lạc Long Quân. Tha nhân cần sinh khí tâm linh của người Việt. Vì Con Rồng Cháu Tiên mang hai dòng máu: Bao la của biển khơi và cao cả của bầu trời. Khi thực hiện được điều này, người Việt Nam sẽ nhận được nụ cười của Di Lặc, quê hương Việt Nam sẽ trở thành “Trời mới Đất mới”. Mọi sự, mọi người Việt sẽ đổi mới tâm can của mình, dấn bước, đi tới với tất cả niềm tự hào và tự tin của người Việt Nam.

Từ những điểm sáng trong bài ca dao, chúng ta có những suy nghĩ gì về cuộc sống hôm nay của người Việt Nam?  

 2. Một vài suy nghĩ và giải pháp cho cuộc sống hôm nay của người Việt Nam

Những năm tháng đi qua, đất nước Việt Nam ngày càng phát triển và hứa hẹn nhiều điều tốt đẹp sẽ đến với những con người sống trên mảnh đất hình chữ S này.

Tuy nhiên, sự thực mà nói, Việt Nam vẫn còn là một quốc gia nghèo. Cái “mác” đất nước nông nghiệp có lẽ còn theo chúng ta trong nhiều năm nữa. Hiện giờ dân số Việt Nam vẫn còn hơn 70% sống bằng nghề nông. Thế nhưng sự phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật không cho phép chúng ta lạc hậu mãi. Khoa học kỹ thuật đã tạo động lực thúc đẩy làm một cuộc cách mạng đưa nền kinh tế đi lên. Kinh tế phát triển, con người cũng được phần nào thoả lòng khát mong có được cuộc sống thay đổi. Từ nghèo đói, nay người ta đã phần nào đủ ăn đủ mặc và có phần trở nên giàu có. Nhưng sự phát triển như vũ bão của kinh tế cũng đem lại nhiều điều đáng cho chúng ta phải suy nghĩ.

Vì lo phát triển kinh tế, bằng mọi giá phải kiếm được nhiều tiền, điều này dễ làm con người trở nên ích kỷ. Khi đã có tiền của, địa vị, chức quyền, người ta bắt đầu có tư tưởng phải hưởng thụ những gì mình đã khó nhọc làm ra và luật bù trừ được người ta áp dụng triệt để.

Để kiếm được nhiều tiền, một số người đã đánh mất chính mình, bán rẻ danh dự, người thân, đồng bào, tổ quốc.

Để có được nhiều tiền, ý niệm công bằng xã hội đã bị một số người gạt ra khỏi quan hệ buôn bán, trao đổi và các quan hệ khác giữa người với người. Trao đổi, buôn bán trở thành sân chơi của kẻ mạnh và tất yếu đi đến một thực tế đau lòng là “cá lớn nuốt cá bé”. Khi công bằng bị xem nhẹ, lương tâm con người  không còn chân thật trong sáng, liệu có còn tìm được một triết lý sống đúng nghĩa nơi xã hội loài người nữa không?

Khi lo phát triển kinh tế, người ta coi trọng vật chất nên vấn đề tâm linh dễ bị lãng quên và dần dà đời sống đạo đức xuống cấp, luật luân lý chỉ còn là mớ chữ nghĩa vô hồn, thì người ta sẽ sống ra sao? Một dự báo buồn là sự “lệch chuẩn luân lý”, đạo đức có nguy cơ xảy đến.

Ở thời điểm hiện tại, Giáo dục được kỳ vọng sẽ là ngành đi đầu trong việc giáo dục giới trẻ, vì họ chính là những người thừa kế tương lai của đất nước. Thế nhưng, ngành giáo dục đã gây cho chúng ta bao nhiêu thất vọng vì đã không đáp ứng được những yêu cầu của hoàn cảnh xã hội hôm nay.

Một xã hội bị kìm kẹp lâu ngày trong chế độ phong kiến với tư tưởng Khổng – Mạnh và phải nhiều năm chiến đấu vì những lần đô hộ của Phương Bắc và Phương Tây. Nay thời binh lửa đã qua nhưng cuộc tấn công của khoa học kỹ thuật đã tới và làm mọi thứ dường như muốn nổ tung. Làn sóng Âu hoá đã làm cho mọi thứ bị xáo trộn, một số người trẻ cảm thấy được tự do hơn và từ đó không còn coi trọng truyền thống dân tộc, xem nhẹ những lời dạy của cha ông. Những bài học còn nóng hổi trong sử sách, mà bài đồng dao Thằng Bờm là một ví dụ, đã bị họ xối vào những gáo nước lạnh của sự thờ ơ!

Hậu quả của sự phát triển phiến diện và có phần lệch lạc nói trên, ai cũng có thể thấy rõ. Tất nhiên, nếu không có “thực” con người khó có thể có hạnh phúc được, nhưng một con người quá đầy đủ về phương diện vật chất cũng chưa hẳn sẽ có đủ khả năng để sống hạnh phúc với tha nhân và với chính bản thân mình. Dưới ánh sáng của các lý thuyết triết học, chúng ta đâu biết rằng con người là một thực thể đa chiều kích, không phải chỉ tồn tại đơn thuần với các chiều kích sinh vật, kinh tế hoặc xã hội mà còn hiện hữu với những chiều kích tâm linh, tôn giáo. Vì thế, phát riển con người phải là một cuộc phát triển con người toàn diện với tất cả các chiều kích đa dạng khác nhau từ hữu hình cho đến vô hình, từ vật chất cho đến tinh thần.

Nhưng thật ra, chúng ta không thể phủ nhận những thành quả của việc phát triển kinh tế và của khoa học kỹ thuật đem lại. Nhờ khoa học kỹ thuật mà Việt Nam đã, đang và sẽ phát triển không ngừng, cho dù nền kinh tế vẫn còn phụ thuộc rất nhiều vào nông nghiệp nhưng người Việt Nam hôm nay không những ăn đã đủ no, mặc đã đủ ấm mà còn đứng thứ hai thế giới về xuất khẩu gạo, chỉ sau Thái Lan. Đây là một thành quả đáng mừng. Nếu trong bài đồng dao Thằng Bờm, hạt gạo được ví như sự sống và chính nó là sự sống, thì hôm nay chúng ta đang chia sẻ sự sống ấy với cộng đồng nhân loại, với thế giới, những người được coi là anh em với chúng ta: “Tứ hải giai huynh đệ”.

Nhờ khoa học kỹ thuật, những người Việt Nam chịu thương chịu khó đã có cuộc sống thoải mái hơn, giàu có về vật chất và đời sống đã được nâng cao. Thành quả hôm nay của người Việt Nam đáng được ghi nhận nhưng vì cuộc sống vẫn đang tiếp diễn và dòng chảy thời gian vẫn không ngừng trôi. Vì thế, phải làm gì để người Việt Nam có một cuộc phát triển toàn diện hơn?

Những việc quan trọng cần phải thực hiện trong thời gian này là phải cải thiện môi trường giáo dục. Giáo dục phải là ưu tiên hàng đầu vì nó đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế, xã hội và con người. Tác giả Vũ Lưu Xuân đã khẳng định như sau: “Sinh ra, con người buộc phải chấp nhận xuất phát từ một khởi điểm tuyệt đối không đồng đều. Tới đây giáo dục bắt đầu thể hiện khả năng và vai trò của nó, giúp tạo ra cơ hội đồng đều cho mọi thành viên, từ đó rút ngắn những khoảng cách hầu như phi lý, hầu như bất công, và từ đó cuộc sống của mọi người đều có cơ may thăng hoa, dẫn theo sự phát triển chung của xã hội, của đất nước”  .

Nhưng vai trò của giáo dục sẽ như thế nào khi mà cách dạy và học còn hời hợt, chỉ chú tâm dạy chữ, dạy nghề, mà việc giáo dục nhân cách làm người còn là vấn đề bị bỏ ngỏ. Bà Nguyễn Thị Oanh, một người nhiều năm tận tâm giáo dục giới trẻ, trong mục gặp gỡ đầu tuần của số báo Phụ Nữ ngày 21/03/2005 đã nhận định một cách thẳng thắn rằng: “Dường như nước ta trong việc giáo dục nhân cách con người rất hời hợt, cha mẹ bất lực, nhà trường chú tâm dạy chữ, dạy nghề, ít dạy làm người”. Đây là một thực tế đau lòng mà những người làm công tác giáo dục phải suy nghĩ. Để phát triển, con người phải được giáo dục toàn diện, từ giáo dục thể chất đến tinh thần, từ giáo dục trí tuệ đến giáo dục nhân cách và tạo cho người trẻ có cơ hội sáng tạo, tự lực, tự cường, tự lập và tự tin. Phải giáo dục thế nào để thế hệ trẻ không “bài cổ theo kim”, nhưng biết dung hoà giữa hai thái cực, biết giữ lại những điều tốt, điều hay của cha ông để lại, biết loại bỏ những gì là cổ hủ lạc hậu để tiếp nhận những thành quả của khoa học kỹ thuật, của văn minh thế giới hôm nay. Tuy nhiên, sự tiếp nhận đó phải có sự chọn lọc, không xô bồ chạy theo những gì làm tổn hại đến văn hoá, phong tục, truyền thống của đất nước. Hơn bao giờ hết, chúng ta cần sáng suốt thấy được cái mạnh và cái yếu của truyền thống: trở về nguồn văn hoá dân tộc để kín múc dòng nước nguyên thủy của tổ tiên, nhưng đồng thời cũng biết “gạn đục khơi trong” để giữ gìn và phát huy phần tinh hoa, để rồi thích ứng với hoàn cảnh mới của thời đại. Làm sao duy trì được nét đẹp hôm xưa, mà đồng thời cũng không quên những đòi hỏi về tính khách quan, tính khế ước, thái độ công bằng, giá trị đạo đức và tinh thần sáng tạo của thời đại hôm nay.

Vai trò của các tôn giáo cũng được nhấn mạnh vì chính môi trường tôn giáo sẽ tạo cho con người một nếp sống quy củ và tâm linh, giúp người ta có những giây phút lắng đọng để phản tỉnh, nhận ra được đâu là điều hay nên tiếp tục và đâu là điều dở cần phải tránh.

Ngoại trừ vai trò của giáo dục, của tôn giáo, một vấn đề hệ trọng nữa mà mọi người từ vị lãnh đạo cao nhất cho đến những người thấp nhất trong bực thang xã hội, là phải lấy tu thân làm đầu. Nhưng để tu thân, con người phải chính tâm, thành ý, rồi mới đến tề gia, trị quốc và lúc đó mới mong thiên hạ được thái bình, nhân loại mới được ấm no, hạnh phúc và an vui.

Một xã hội hài hoà đã từng là ước mơ của những người sống đồng thời với Thằng Bờm và Phú Ông. Quả thực, mơ ước đó đã trở thành hiện thực trong ý thức thương người, tôn trọng công bằng, công lý, tương thân tương kính…  mà nhân vật Thằng Bờm và Phú Ông là những hình mẫu. Mơ ước đó cũng đang thúc đẩy mọi người sống trên mảnh đất Việt Nam ra sức biến ước mơ như thế của những người Việt ngày hôm nay thành hiện thực, thể hiện phẩm chất của Con Rồng Cháu Tiên, khí phách hào hùng của Thánh Gióng. Mỗi người Việt Nam chúng ta chính là Con Rồng Cháu Tiên, được hoài thai từ một bọc trăm trứng do mẹ Âu Cơ mang nặng đẻ đau để dù ở đâu, người trong nước hay người xa xứ khắp muôn phương vẫn cất chung tiếng gọi hai tiếng đầm ấm “đồng bào” và cùng chung khí phách hào hùng của Thánh Gióng, của dân tộc.

Kết Luận
Cuộc sống con người được ví như một sân khấu mà mỗi người là một diễn viên. Chúng ta sẽ diễn như thế nào, chính diện hay phản diện, nội dung diễn là thiện hay ác? Dĩ nhiên, đã là người, ai cũng muốn vươn lên, luôn ước muốn những điều tốt đẹp cho mình, cho người và cho xã hội nhưng cũng có những lúc yếu lòng, chúng ta đã làm những điều ngược lại.
Mỗi người đều có một lý tưởng sống nhưng lý tưởng sống ấy là vị kỷ, vị nhân hay vị tha, điều đó còn hệ tại ở con người, môi trường sống, văn hoá và triết lý sống của cá nhân người ấy nữa.

Cha ông chúng ta đã sống, đã có những suy tư, kinh nghiệm và đã đúc kết những kinh nghiệm đó để truyền lại cho con cháu. Cha ông chúng ta đã nhận được từ kho tàng triết lý Việt, cũng như những triết thuyết Nho, Lão, Phật những chất liệu tốt để hình thành nên triết lý sống cho người Việt. Triết lý này không có sự khác biệt giữa “biết” và “sống”, giữa “tri” và “hành” nhưng “tri hành” hợp nhất.

Vì thế, giáo sư Trần Văn Đoàn đã nhận định như sau: “Việt Triết, khác biệt với nền triết học tư duy của Tây Phương. Việt Triết, tự bản tính là triết thực hành. Song thực hành không có nghĩa thiếu tư duy hay thiếu phản tỉnh. Ngược lại, người Việt chúng ta tư duy, chúng ta suy nghĩ, song suy nghĩ về những vấn nạn thực tiễn chứ không phải những vấn đề trừu tượng. Như là một nền triết học thực hành, triết học bao gồm mọi vấn đề liên quan tới cuộc sống của con người như sinh, bệnh, lão, tử (thuyết căn bản của Phật giáo); những vấn nạn phát xuất từ sự tương quan của con người và xã hội như bất công, bất nhân, bất hiếu, bất lễ, bất trí, bất tín…(thuyết của Nho giáo); hoặc những vấn nạn phát xuất từ lòng tham lam, quyền bính, thiếu tự do… (thuyết của Lão giáo); những vấn nạn phát xuất từ sự sống còn của dân tộc (ngoại xâm, nội chiến, thù hận giữa các sắc tộc, các tôn giáo…) và những vấn nạn thấy trong cuộc sống hiện đại (kinh tế, dân chủ, tự do, kiến thức…).

Là những người Việt Nam hôm nay, chúng ta đã tiếp nhận được gì, làm được gì và sống như thế nào? Chúng ta tự hào là Con Rồng Cháu Tiên trong một đất nước bốn ngàn năm văn hiến, nhưng mỗi người trong chúng ta đã làm được gì cho nền văn hiến ấy? Chúng ta đã sống như thế nào để thể hiện triết lý sống như cha ông chúng ta đã thể hiện? Triết lý sống trong bài đồng dao Thằng Bờm có đánh động gì đến suy nghĩ và cách sống của chúng ta hay không? Chúng ta hãy tự vấn xem mình đã, đang và sẽ để lại cho hậu thế người Việt Nam những gì? Đó là những vấn nạn mà thiết nghĩ chính mỗi người trong chúng ta mới có câu trả lời xác đáng ◊

Nguyễn Văn Hoàn


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.         Toan Ánh, Văn hoá Việt Nam những nét đại cương, Nxb Văn Học, 2002.
2.         Lm. Thiện Cẩm , Tiếng hát mỗi dòng sông, 2003.
3.         Nguyễn Du, Truyện Kiều, Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim hiệu khảo, Nxb Đà Nẵng, 2001.
4.         Kim Định, Lạc thư minh triết, Nxb Nguồn Sáng, 1971.
5.         Trần Văn Đoàn, Tổng quan về triết học và Việt triết, Đại học quốc gia Đài Loan.
6.         Karl Jaspers, Triết học nhập môn, Lê Tôn Nghiêm dg, Ca Dao, 1974.
7.        Lm. Trần Ngọc Hoan, Tín ngưỡng Việt Nam, Lớp bồi dưỡng Thánh Gia, Niên khoá 2004 - 2005.
8.         Ted Honderich, Hành trình cùng triết học, Lưu Văn Hy biên dịch, Nxb Văn Hoá Thông Tin, 2002.
9.         Trần Văn Hiến Minh, Từ điển triết học, Tủ sách Ra Khơi, 1966.
10.      Phan Ngọc, Văn hoá Việt Nam và cách tiếp cận mới, Nxb Văn Hoá Thông Tin, 2005.
11.      Vũ Ngọc Phan, Tục ngữ, ca dao, dân ca Việt Nam, Nxb Văn Học, 2000.
12.      Đông Phong, Về nguồn văn hoá Việt Nam, Nxb Mũi Cà Mau, 1998.
13.      Nguyễn Văn Thành, Tự tin, Tủ sách tình người, Xuân 2000.
14.      Trần Ngọc Thêm, Cơ sở văn hoá Việt Nam, Nxb Giáo Dục, 1998.
15.      Tứ Thư,  Đoàn Trung Còn dg, Nxb Thuận Hoá, 2000
16.      Nguyễn Đăng Trúc, Tiếp cận tư tưởng Việt Nam, Quyển II, Định Hướng Tùng Thư xuất bản, Tái bản 2004.
17.      Nguyễn Đăng Trúc, Văn hiến, nền tảng của minh triết, Định Hướng Tùng Thư,  Tái bản lần đầu, 2004.
18.      Lý Minh Tuấn, Công Giáo và Đức Kitô, Kinh Thánh qua cái nhìn từ Đông Phương, Nxb Tôn Giáo, Hà Nội, 2003.
19.      Lý Minh Tuấn, Đông Phương triết học cương yếu, Nxb Thuận Hoá, 2005.
20.      Lão Tử, Đạo Đức Kinh, Nguyễn Tôn Nhan giảng nghĩa và chú giải, Nxb Văn Học, 1999.
21.      Nguyễn Trọng Viễn, Trăm năm trong cõi người ta, Học viện Đa-minh, 1995.
22.      Ts. Phạm Thái Việt, Ts. Đào Ngọc Tuấn, Đại cương về văn hoá Việt Nam, Nxb Văn Hóa Thông Tin, 2004.
23.      Viện Ngôn Ngữ Học Việt Nam, Từ điển Tiếng Việt, Nxb Văn Hoá Thông Tin, 2001.

No comments:

Post a Comment